Lê Đóa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nghệ sĩ Nhân dân
Lê Đóa
Thông tin cá nhân
Sinh
Tên khai sinh
Lê Hữu Đóa
Ngày sinh
(1922-08-19)19 tháng 8, 1922
Nơi sinh
Nghi Xuân, Hà Tĩnh
Mất
Ngày mất
31 tháng 8, 2008(2008-08-31) (86 tuổi)
Giới tínhnam
Quốc tịch Việt Nam
Nghề nghiệp
  • Nhạc trưởng
  • Nhạc sĩ
Gia đình
Bố mẹ
Lê Hữu Phương
Lĩnh vực
  • Nhạc giao hưởng
  • biến tấu
  • hợp xướng
Danh hiệuNghệ sĩ ưu tú (1984)
Nghệ sĩ nhân dân (1993)
Sự nghiệp nghệ thuật
Năm hoạt động1953 - 1989

Lê Đóa, tên khai sinh là Lê Hữu Đóa (19 tháng 8 năm 1922 - 31 tháng 8 năm 2008) là một nhạc sĩ quân đội chuyên ngành Chỉ huy. Ông được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1984 và Nghệ sĩ Nhân dân năm 1993.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Ông sinh ra và lớn lên trong một dòng họ và gia đình có truyền thống khoa bảng ở làng Tả Ao (nay là xã Xuân Giang), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là chắt đời thứ 9 của tiến sĩ Lê Đăng Truyền, một nhà thơ được người đời tôn vinh là một trong "Nghệ An tứ hổ". Thân phụ của ông, cụ Lê Hữu Phương, cũng là một nhân sĩ tham gia kháng chiến chống Pháp, từng làm phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh huyện Nghi Xuân.

  • Ngay từ những ngày nhỏ tuổi ở Vinh, ông học nhạc, học đàn với bạn bè trong xóm và mê mẩn nghe cha hòa nhạc với các cụ bạn. Sau khi đỗ bằng Thành chung tại Quốc học Vinh, ông lại vào Huế thi đỗ vào trường Lycée Khải Định. Tại Huế ông vừa đi học vừa làm quen với các Thầy dòng người Pháp ở trường Pèlerins và Thư viện Accucil gần đó để học lý thuyết âm nhạc.
  • Năm 1944 ông thôi học, trở thành thành viên nòng cốt Đoàn Hướng đạo sinh (scoutisme) ở Vinh.
  • Đầu 1945 ông gia nhập Thanh niên cứu quốc, tham gia cướp chính quyền ờ Vinh và sau đó làm việc ở Ty tuyên truyền Nghệ An, ông nhanh chóng tổ chức dàn nhạc, thành lập đội tuyên truyền xung phong, hăng hái vận động đổng bào ủng hộ kháng chiến.
  • Năm 1949, ông được về đi học trường chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng tại Đức Thọ. Tại đây ông mở lớp dạy nhạc, tổ chức dàn nhạc, đội hát. Lớp học trò của ông ngày đó về sau nhiều người đã thành tài, như nhạc sĩ nghệ sĩ nhân dân Trọng Bằng, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ (hai người này thường hòa thanh với thầy Lê Hữu Đóa ở lớp). Thời gian này ông được cử vào Ban chấp hành Hội Nhạc sĩ Hà Tĩnh.
  • Tháng 4-1950, ông nhập ngũ được sang Trung Quốc học tại trường Lục quân Trần Quốc Tuấn. Tốt nghiệp Trường Lục quân, ông được phân công về Đội tuyên truyền vãn hóa của trường, cùng với các nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Đinh Ngọc Liên xây dựng nòng cốt cho Đoàn Văn công quân đội sau này
  • Năm 1953 trở về nước ông được điều về Đoàn ca múa Tổng cục chính trị làm nhạc trưởng (từ đó giới nhạc quen gọi tắt tên ông là Lê Đóa và là tên chính thức trong cuộc đời hoạt động nghệ thuật của ông). Tại Đoàn ca múa Tổng cục chính trị ông là người đầu tiên được giao trách nhiệm xây dựng và chỉ huy dàn nhạc giao hưởng và hợp xướng quân đội, cũng đồng thời là dàn nhạc giao hưởng và hợp xướng đầu tiên của cả nước. Ông đã dựng nhiều bản hợp xướng lớn, xuất sắc nhất của Việt Nam và tham gia viết 2 màn nhạc, chỉ huy dàn nhạc và vào một vai trong vở kịch múa Ngọn lửa Nghệ Tĩnh (vở này năm 2001 được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh).
  • Nãm 1961 Nhà hát Giao hưởng hợp xướng Việt Nam thành lập, ông là người đầu tiên dàn dựng và chỉ huy biểu diễn nhiều tác phẩm lớn của thế giới, như Giao hưởng số 5 của Beethoven, Caprìccioỉtalien, Hồ Thiên nga, Giao hưởng số 6 của Tchaikovski, Giao hưởng số 40 của Mozart, Giao hưởng số 8 của Schubert, Tổ khúc Carmen của Bizet... và một số giao hưởng Việt Nam của Hoàng Vân, Đàm Linh,... Ông đã dàn dựng và chỉ huy dàn nhạc và hợp xướng Tổng cục Chính trị các tác phẩm: Sóng Cửa Tùng (Doãn Nho), Lửa rực cháy (Hồng Đăng), Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy (Tô Hải), Du kích Sông Thao (Đỗ Nhuận), Lô Giang (Lương Ngọc Trác).
  • Năm 1965-1982, ông làm Đoàn trưởng kiêm chỉ đạo nghệ thuật Đoàn Văn công Công an vũ trang (nay là Đoàn Nghệ thuật Bộ đội Biên phòng).
  • Năm 1983-1989, ông làm Đoàn phó kiêm chỉ đạo nghệ thuật Đoàn Nghệ thuật Quân khu 9.
  • Từ năm 1989, ông nghỉ hưu tại Cần Thơ. Ông mất ngày 31 tháng 8 năm 2008. [1]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Ông có một người con trai, đã hy sinh trong cuộc Tổng tấn công Xuân Mậu Thân 1968 ở chiến trường Quân khu 9, chưa tìm được thi thể.[1]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b "Bố Đóa".

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Người Nghi Xuân, Tập 1 (Nhiều tác giả), Nhà Xuất bản Văn hóa - Thông tin, 2002.