Lee Chang-dong

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lee Chang-dong
Lee Chang-dong tại liên hoan phim quốc tế Karlovy năm 2010
Sinh4 tháng 7, 1954 (69 tuổi)
Daegu, South Korea
Trường lớpĐại học quốc gia Kyungpook (1981)
Nghề nghiệpĐạo diễn phim, biên kịch
Năm hoạt động1997–present
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
Hanja
Romaja quốc ngữI Chang-dong
McCune–ReischauerI Ch'angdong

Lee Chang-dong (Tiếng Hàn이창동; Hanja: 李滄東; sinh ngày 4 tháng 7 1954) là một nhà làm phim, biên kịch và viết tiểu thuyết người Hàn Quốc.[1] Ông đạo diễn 6 phim chủ đề bao gồm Green Fish (1997), Peppermint Candy (2000), Oasis (2002), Secret Sunshine (2007), Poetry (2010)[2], và Burning (2018). Burning là bộ phim Hàn Quốc đầu tiên lọt đến danh sách rút gọn gồm 9 phim cho đề cử phim tiếng nước ngoài xuất sắc nhất tại liên hoan phim Oscar lần thứ 91, đây cũng là bộ phim thắng giải của Liên đoàn quốc tế báo chí điện ảnh (Fipresci International Critics' Prize) tại liên hoan phim Cannes lần thứ 71, giải phim nước ngoài hay nhất của hiệp hội phê bình phim Los Angeles, phim nước ngoài hay nhất của hiệp hội phê bình phim Toronto

Lee Chang-dong đạt giải su tử bạc cho đạo diễn xuất sắc nhất và giải của Liên đoàn quốc tế báo chí điện ảnh năm tại liên hoan phim Vernice năm 2002 và giải biên kịch xuất sắc nhất tại liên hoan phim Cannes năm 2010. Ông cũng giành giải thành tựu đạo diễn tại lễ trao giải Asia Pacific Screen Awards lần thứ 4 năm 2017, giải Jury Grand tại lễ trao giải Asia Pacific Screen Awards năm 2018, Giải đạo diễn xuất sắc nhất và giải thành tự trọn đời tại lễ trao giải Asian Film Awards lần thứ 12 năm 2019. Ông từng được đề cử giải sư tử vàngcành cọ vàng.

Lee Chang-dong từng là bộ trưởng bộ Văn hóa và Du lịch của chính phủ Hàn Quốc giai đoạn 2003-2004.

Giai đoạn đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]

Lee Chang-dong sinh ra tại Daegu, tối nghiệp ngành văn học Hàn Quốc năm 1981 tại trường Đại học quốc gia Kyungpook sau đó dạy văn ở trường trung học..

Sự nghiệp phim ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Phim Đạo diễn Nhà sản xuất Biên kịch Ghi chú
1993 To the Starry Island Cũng tham gia làm trợ lý đạo diễn
1995 A Single Spark
1997 Green Fish
1999 Peppermint Candy
2002 Oasis Tham gia tranh giải phim nước ngoài hay nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 75
2007 Secret Sunshine Tham gia tranh giải phim nước ngoài hay nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 80
Never Forever
2009 A Brand New Life
2010 Poetry
2013 Hwayi: A Monster Boy
2014 A Girl at My Door
2015 Collective Invention
2016 The World of Us
2018 Burning Lọt đến danh sách rút gọn gồm 9 phim cho đề cử phim tiếng nước ngoài xuất sắc nhất tại liên hoan phim Oscar lần thú 91
2019 Birthday

Sự nghiệp văn chương[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1987, Lee Chang-dong xuất bản truyện ngắn đầu tiên của mình, "소지" (Sở hữu), tiếp theo là "녹천에는 똥이 많다" (Có rất nhiều chuyện chết tiệt ở Nokcheon) vào năm 1992, tác phẩm đã mang về cho ông Giải thưởng Văn học The Korea Times[3][4][5]

Năm 2007, truyện ngắn của ông, 꿈꾸는 짐승 (Quái vật đang ngủ) (do Heinz Insu Fenkl dịch), được đăng trên tạp chí AZALE[6][7] A. Năm 2018, truyện ngắn On Destiny (do Soyoung Kim dịch), được đăng trên tạp chí Asymptote.[8]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Lee Chang-dong là con trai thứ ba trong số bốn anh em. Em trai út của anh, Lee Joon-dong, là nhà sản xuất phim cho các bộ phim của ông. Ông hy vọng lớn lên sẽ trở thành một họa sĩ, nhưng anh ấy không đủ tiền mua đồ dùng cho nghệ thuật[9][10]. Ông và chủ tịch của đài phát thanh và truyền hình MBC, Choi Seung-ho, là bạn cũ và cựu sinh viên Đại học Quốc gia Kyungpook. Ông ấy đã đích thân đề nghị Choi Seung-ho xuất hiện trong bộ phim Burning với tư cách là cha của Jong-su. Lee Chang-dong cũng là bạn thân của nam diễn viên Moon Sung-keun - ngươi cộng tác thường xuyên của Lee Chang-dong.[11]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Korean Writers The Novelists. Minumsa Press. 2005. tr. 156.
  2. ^ cand.com.vn. “Tìm kiếm thơ ca của Lee Chang Dong”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2023.
  3. ^ Taylor-Jones, Kate E. (2013). “Lee Chang-dong and the Trauma of History”. Rising Sun, Divided Land: Japanese and South Korean Filmmakers. Columbia University Press. ISBN 9780231850445.
  4. ^ Korean Literature Translation Institute (2005). Korean Writers: The Novelists. Minumsa Press. tr. 157.
  5. ^ Joseph Pomp (2014). “Great Directors: Lee Chang-dong”. Sense of Cinema.
  6. ^ Heinz Insu Fenkl (2007). “On the Narratography of Lee Chang-dong: A Long Translator's Note”. The Korea Institute, Harvard University. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2023. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  7. ^ Lee, Chang-Dong; Fenkl, Heinz Insu (2007). Heinz Insu Fenkl biên dịch. “The Dreaming Beast”. Azalea: Journal of Korean Literature & Culture. Azalea. 1: 317–337. doi:10.1353/aza.0.0033. S2CID 191498053.
  8. ^ “On Destiny. Lee Chang-dong”. Soyoung Kim biên dịch. Asymptote. 2018. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  9. ^ “장관시절을 묻자 그는, 한참을 망설였다...영화감독 이창동”. Imaeil (bằng tiếng Hàn). 26 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2019.
  10. ^ “국정원 불법 사찰문건 받은 '버닝' 제작자 이준동 "얼마나 더 있는지...안 내놓으면 개혁 의지 없는 것". VOP (bằng tiếng Hàn). 16 tháng 2 năm 2021.
  11. ^ '버닝' 이창동 문성근 최승호, 진보인사 3인방의 '반갑다 친구야'. Single List (bằng tiếng Hàn). 18 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2019.