Lê Tranh (Phúc vương)
Phúc Ý Khang Vương 福懿康王 | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tông thất nhà Lê | |||||||||
Phúc Vương | |||||||||
Tại vị | 1471 - 1500 | ||||||||
Thông tin chung | |||||||||
Sinh | 27 tháng 3, 1467 Đông Kinh | ||||||||
Mất | 6 tháng 8, 1500 Đông Kinh | (33 tuổi)||||||||
An táng | Hạnh Hoa Khê, huyện Từ Liêm, Hà Nội | ||||||||
Phối ngẫu | Trịnh Thục Tuân Lưu Châu Linh | ||||||||
| |||||||||
Triều đại | Nhà Hậu Lê | ||||||||
Thân phụ | Lê Thánh Tông | ||||||||
Thân mẫu | Nguyễn Tài nhân |
Lê Tranh (chữ Hán: 黎錚; 27 tháng 3, 1467 - 6 tháng 8, 1500), là một Hoàng tử và là nhà thơ thời nhà Hậu Lê.
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Phúc vương Tranh (福王錚) sinh ngày 27 tháng 3, năm Quang Thuận thứ 4 (1467) tại kinh đô Thăng Long, là con thứ sáu của Lê Thánh Tông, mẹ là tài nhân họ Nguyễn (1444 - 1479), người làng Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm.
Năm 1471, Thánh Tông sai đại thần Lê Hy Cát (黎希葛) mang sách vàng và ấn báu phong Hoàng tử Tranh làm Phúc Vương (福王), cho lập phủ ở phường Đông Tác, huyện Vĩnh Xương thuộc Thăng Long.
Tháng 12, năm 1486, Phúc vương bà Thục Tuân, con gái Thượng thư bộ Binh Trịnh Văn Lượng (郑文亮) về làm vợ. Năm 1488, bà phi ấy mất, Phúc vương ở vậy cho tới năm 1494, mới cưới người vợ thứ hai là bà Châu Linh, con gái quan Mậu ân sứ Lưu Cảnh Đức (刘景德).
Tháng 8 năm 1500, ngày 4, Phúc vương mắc bệnh nặng. Sau khi dặn bảo người trong phủ là việc tang phải tiết kiệm, không làm lễ Phật và chỉ theo lễ cổ, thì qua ngày mùng 6, ông qua đời, hưởng dương 33 tuổi. Thương tiếc ông, Hiến Tông cho bãi triều ba ngày, ban cho tiền làm lễ táng, và ban cho tên thụy là Ý Khang (懿康).
Theo Lê Quý Đôn, ...tính Phúc Vương giản dị, thanh đạm, ôn hòa, đứng đắn, thực thà, ít nói, luôn giữ mình theo lễ nghĩa phép tắc, ham mê sách vở (thích nhất là Kinh Dịch, cũng hiểu được ý nghĩa lớn của sách), giỏi viết chữ thảo, rất hay thơ, phong cách thơ thanh cao hùng tráng, đã từng được vua Lê Thánh Tông đặc biệt khen ngợi, coi trọng. Người đương thời thường sánh ông với Đông Bình và Hà Gian đời xưa" [1].
Khu đền mộ
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi Phúc Vương mất, tháng 10 năm đó (1500), người thân đưa ông về an táng tại cánh đồng Hạnh Hoa Khê (tục gọi là xứ Mả Bia) thuộc Tây Mỗ (nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội), là quê mẹ của Phúc Vương.
Năm 1944, nhà văn Trúc Khê có tới thăm mộ Phúc Vương, thì thấy đó là một nấm đất rộng, trên phủ cỏ, ước chừng ba bốn mét đường kính. Ở đầu mộ có dựng một tấm bia đứng trên lưng rùa (lớn bằng tấm bia lớn ở Văn Miếu Hà Nội), mặt chính hướng về hướng Nam, nhưng vì trải nhiều năm tháng nên đã mòn hết chữ. Cách mộ chừng trăm bước là ngôi đền nhỏ hẹp, sự phụng tự bên trong cũng khá thanh giản. Ngoài ra, trong đền còn có tấm bia ghi sự dựng đền và tu sửa đền [2].
Thơ văn
[sửa | sửa mã nguồn]Thơ văn của Phúc Vương Tranh đã thất lạc hết, hiện chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán được chép trong Hoàng Việt thi tuyển do Bùi Huy Bích biên soạn. Đó là bài Phụng họa Ngự chế Thiên vực giang hiểu phát (làm theo thể thất ngôn bát cú) và bài Xuân tảo (làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt). Theo nhà văn Trúc Khê, thì cứ xem hai bài ấy cũng đủ biết Vương là một nhà thơ rất lỗi lạc [3].
|
|
|
Gia Quyến
[sửa | sửa mã nguồn]- Phu Nhân
- Thục Tuân, là chính phi, con gái Lễ bộ Thượng thư Trịnh Văn Lượng, lấy Phúc Vương tháng 12 năm 1486, theo Đại Việt Thông sử bà mất năm 1488, theo bài văn bia trên Tấm Bia ở Hạnh Hoa Khê[4] bà mất năm 1495.
- Châu Cáp[4](hoặc Châu Hạp[5] là kế phi, con gái quan Chiêu Liệt đại phu Lưu Cảnh Đạt[4] (hoặc Mậu ân sứ Lưu Cảnh Đức[5] lấy Phúc Vương ngày 27 tháng 12 năm 1495.[4]
- Con Trai
- Lúc Phúc Vương qua đời có một người con trai còn nhỏ (không biết tên)[4]
- Có ba con trai nhỏ, theo Đại Việt Thông sử[5]
- Con Gái[4]
- Thị Dự, con gái lớn, lúc Phúc Vương qua đời thì đã đến tuổi cài trâm.
- Thị Dượng, con gái thứ, lúc Phúc Vương qua đời thì đã lên 3 tuổi
- Con gái út (không biết tên), lúc Phúc Vương qua đời thì mới biết bò
Sách tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử (mục "Phúc Vương"). Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, 1978.
- Trúc Khê, "Thăm mộ nhà thơ Phúc Vương Tranh", in trong Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2003.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Đại Việt thông sử (bản dịch, tr. 150). Chú thích: Đông Bình tức Đông Bình vương, con trai của vua Hán Quang Vũ ở Trung Quốc. Đông Bình ham làm việc thiện, có câu nói nổi tiếng là: "Làm việc thiện là điều vui sướng nhất" (vi thiện tối lạc). Hà Gian tức Hà Gian Hiến vương, tên thật là Đức, con vua Hán Cảnh Đế ở Trung Quốc. Ông ham học tập và sưu tầm sách cổ.
- ^ Theo bài viết "Thăm mộ nhà thơ Phúc Vương Tranh" của Trúc Khê, tr. 574-575.
- ^ Trúc Khê, bài viết đã dẫn, tr. 573.
- ^ a b c d e f “PHÚC VƯƠNG TRANH VÀ TẤM BIA Ở HẠNH HOA KHÊ – Thần Tiên Việt Nam 越南神仙”.
- ^ a b c Đại Việt thông sử (bản dịch, tr. 184)