Thành viên:Hanhkute13/Văn hóa Ả Rập

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Văn hoá Ả Rập được xem như là văn hóa của các quốc gia có ngôn ngữ chính thức là tiếng Ả Rập (mặc dù vậy, ở một vài nước như thì nó là ngôn ngữ thiểu số), và các lãnh đạo phương Tây và các học giả sử dụng để gọi họ là "Các nước Ả Rập" của Tây Nam Á và Bắc Phi, từ Maroc cho tới Biển Ả Rập. Ngôn ngữ văn học, ẩm thực, nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạc, tâm linh, triết lý, thần bí ( ... ) đều là một phần của di sản văn hóa của các khối quốc gia Ả Rập.

Thế giới Ả rập là đôi khi chia ra thành những khu vực riêng biệt, bao gồm cả Nile (gồm có của Ai cập và Sudan), Al-Maghrib Al-Thổ (bao gồm Libya Tunisia Algérie, Maroc, và Mauritania), Fertile Crescent (bao gồm của Iraq, Lebanon, Syria, Palestine và Jordan) và bán Đảo ả Rập (bao gồm nam Iraq, Jordan, Kuwait, Bahrain, Qatar, Ả Rập Saudi, Al Ahwaz Al Arabiya, Oman và các Tiểu Vương Quốc Ả Rập thống nhất) và bán đảo Ả Rập ' s Al-Janoub Al-Arabi (bao gồm Yemen và Oman).

Văn hoá Ả Rập được chia thành ba phần chính, văn hóa đô thị (Al-Mudun), văn hoá nông thôn (Ar-san Hô), và văn hoá du mục (Al-Badow).[cần dẫn nguồn] Thông thường, hầu hết các nước Ả rập của Vịnh ba Tư, cùng với các phần của Jordan và Iraq, được coi là Badow (Bedouins). Những vùng nông thôn của các nước khác, chẳng hạn như Palestine, Syria, Lebanon, Iraq, Algeria và Tunisia được coi là nền văn hoá nông thôn. Thành phố của họ thì được coi là văn hóa đô thị. Trong thực tế, hầu hết các thành phố lớn của Ả Rập được công nhận là văn hóa đô thị, giống như Jaffa (Israel "trước kia"), Cairo, Jerusalem, Beirut, Ở Alexandria, Damascus. Levant, đặc biệt là Palestine, Lebanon, Syria cũng như Ai Cập có lịch sử lâu dài của nền văn hoá đô thị.

Văn học[sửa | sửa mã nguồn]

Văn học Ả Rập là được tạo ra bằng việc viết, cả văn xuôithơ ca, bởi những người nói tiếng Ả Rập. Nó không bao gồm việc dùng bảng chữ cái Ả Rập để viết , như là văn học Ba Tư và Urdu. Từ ngữ Ả Rập được sử dụng cho văn học gọi là adab, nguồn gốc từ một từ có nghĩa là "để mời ai đó cho bữa ăn", và nó có ngụ ý lịch sự, văn hóa và phong phú. Văn học Ả Rập đã xuất hiện trong hế kỷ thứ 6, với những mảnh vỡ của ngôn ngữ viết xuất hiện trước đó. Từ thế kỷ thứ 7, kinh Koran đã có ảnh hưởng lớn và lâu đời nhất lên văn hóa Ả Rập và văn học. Al-Khansa, một nhà thơ Ả Rập rất được đón nhận và là đồng nghiệp nữ của Muhammad.

Antara và Abla, phiên bản Romeo và Juliet của Ả Rập

Mu'allaqat[sửa | sửa mã nguồn]

Mu'allaqat (tiếng ả rập: المعلقات, phát âm tiếng Ả Rập: [al-muʕallaqaːt]) là tên của một loạt 7 bài thơ Ả Rập hay còn gọi "qasida", có nguồn gốc trước cả thời gian của đạo Hồi. Mỗi bài thơ trong bộ có một tác giả khác nhau, và được coi là tác phẩm tốt nhất họ từng làm. Mu'allaqat có nghĩa là "Những bài thơ ngắn bị gián đoạn" hoặc "Những bài thơ treo," và nó đến từ việc chúng bị treo trên bức tường ở Kaaba tại Mecca.

Bảy tác giả, những người trong khoảng thời gian 100 năm, là Imru' al-Qais, Tarafa, Zuhayr, Labīd, 'Antara Ibn Shaddad, 'Amr ibn Kulthum, và Harith ibn Hilliza. Tất cả  Mu'allaqats chứa những câu chuyện từ cuộc sống tác giả và việc chính trị của những bộ lạc. Bởi vì thơ đã được sử dụng trong khoảng thời trước khi có đạo Hồi để quảng bá sức mạnh cho các vị vua bộ lạc, sự giàu có và dân tộc.

Nghìn Lẻ Một Đêm (tiếng ba tư: هزار و یک شب) là một bộ sưu tập truyện dân gian thời trung cổ kể về những câu chuyện của Scheherazade (trong tiếng ba tư: Šahrzād شهرزاد), Nữ Hoàng Sassanid, người có liên quan đến một loạt các câu truyện về người chồng độc ác, Vua Shahryar (Šahryār), để hoãn lại bản án dành cho mình. Những câu chuyện được kể hơn một khoảng thời gian một ngàn lẻ một đêm, và mỗi đêm, Nữ Hoàng sẽ kết thúc câu truyện với một tâm trạng hồi hộp, buộc Đức Vua phải giữ cho cô ấy sống qua đến ngày khác. Những câu chuyện cá nhân, đã được tạo ra qua nhiều thế kỷ bởi rất nhiều người từ những vùng đất khác nhau.

Trung tâm của bộ sưu tập được hình thành bởi cuốn sách của Pahlavi Sassanid Persian có tên là Hazār Afsānah [9] (Thounsand Myths, tiếng Ba Tư: هزار افسانه), một bộ sưu tập của những câu chuyện cổ đại dân gian Ấn Độ và Ba Tư.

Trong triều đại của vua Abbasid Caliph Harun al-Rashid vào thế kỷ 8, Baghdad đã trở thành một thành phố quan trọng của thế giới. Thương nhân từ Ba Tư, Trung Quốc, Ấn Độ, Châu Phi và Châu Âu đều được tìm thấy ở Baghdad. Trong thời gian này, nhiều câu chuyện kể là những câu chuyện dân gian ban đầu được cho là đã được thu thập bằng miệng trong nhiều năm và sau đó được biên soạn thành một cuốn sách. Người biên dịch và dịch giả của thế kỉ thứ 9 sang tiếng Ả Rập nổi tiếng là người kể chuyện Abu Abd-Allah Muhammad el-Gahshigar. Kết cấu câu chuyện của Shahrzad dường như đã được thêm vào thế kỷ 14.

Âm Nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Bức bích họa từ Qasr al-Hayr al-Gharbî, Syria, Cung điện vua Ummayad, được xây dựng vào những năm đầu thế kỷ thứ 7

Âm nhạc Ả Rập là âm nhạc của người Ả Rập, đặc biệt là những người tập trung xung quanh bán đảo Ả-rập. Thế giới của âm nhạc Ả Rập từ lâu đã được Cairo, một trung tâm văn hoá thống trị, mặc dù sự đổi mới trong âm nhạc và phong cách của khu vực từ Tunisia đến Ả-rập Xê-út. Beirut, trong những năm gần đây, cũng trở thành một trung tâm chính của âm nhạc Ả Rập. Nhạc Ả Rập cổ điển rất phổ biến trên khắp quần chúng, đặc biệt là một số lượng nhỏ các siêu sao nổi tiếng khắp thế giới Ả rập. Các phong cách âm nhạc phổ biến trong khu vực bao gồm el Maqaam của Iraq, Algeria raï, Kuwaiti sawt và Egyptian el gil.


The riq is widely used in Arabic music

Truyền Thông[sửa | sửa mã nguồn]

Giá trị của truyền thông[sửa | sửa mã nguồn]

[1]

Báo chí[sửa | sửa mã nguồn]

References[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Chú thích trống (trợ giúp)

[[Thể loại:Văn hóa Ả Rập]] [[Thể loại:Văn hóa dân gian theo quốc gia]] [[Thể loại:Văn hóa dân gian theo khu vực]]