Thành viên:Tranhtainhom3/Roger Joyce Bushell

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

 

Roger Bushell
Tập tin:Roger Bushell1.jpg
Bushell in his Royal Air Force uniform shortly before his capture
Sinh(1910-08-30)30 tháng 8 năm 1910
Springs, Transvaal, South Africa
Mất29 tháng 3 năm 1944(1944-03-29) (33 tuổi)
Ramstein, Germany[1]
ThuộcUnited Kingdom
Quân chủngRoyal Air Force
Năm tại ngũ1932–1944
Quân hàmSquadron Leader
Chỉ huyNo. 92 Squadron RAF (1939–40)
Tham chiếnSecond World War
Khen thưởngMentioned in Despatches


Phi Đội Trưởng Roger Joyce Bushell (30/ 8 /1910 – 29/9/1944 ) là một người Anh gốc Nam Phi. Ông được mọi người biết đến nhiều nhất với tư cách là một người chủ mưu của "Great Escape" từ Stalag Luft III năm 1944, nhưng lại là một trong những người kém may mắn bị bắt lại và sau đó đã bị sát hại bởi Gestapo.

Sự ra đời và cuộc sống cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Roger Bushell được sinh ra ở Springs, Transvaal, Nam Phi vào ngày 30/8/1910, cha mẹ ông là người Anh gốc Nam Phi, là Benjamin Daniel và Dorothy Wingate Bushell (nhũ danh White) - cha của ông là một kỹ sư khai thác mỏ, sau nhiều năm làm việc cật lực, cha ông đã sử dụng toàn bộ tài sản của mình để cho ông đi học, với mong muốn rằng Roger Bushell sẽ nhận được một nền giáo dục tốt nhất. Lần đầu tiên đi học Bushell học ở Johannesburg; vào năm 14 tuổi, ông vào nhập học tại trường Cao đẳng Wellington ở Berkshire nước Anh. Năm 1929, Bushell đến Pembroke College, Cambridge để học luật. [2]

Ngoài việc học tập, sở thích từ khi còn nhỏ của Bushell là các môn bóng bầu dục, ông đã chơi rất xuất sắc và đã mang về cho Cambridge nhiều giải thưởng trong các cuộc đua từ năm 1930 đến năm 1932,[3][4], ông đã bắt đầu trở thành người dẫn dắt đội bóng vào năm 1931.[5]

Niềm đam mê Trượt tuyết[sửa | sửa mã nguồn]

Một trong những niềm đam mê và tài năng về thể thao của Bushell là môn trượt tuyết. Trong những năm 1930 ông được tuyên bố là người Anh trượt tuyết nhanh nhất ở hạng mục trượt tuyết xuống dốc. Sau chiến tranh, có một đường đua được đặt tên theo tên ông là St. MoritzThụy sĩ, đường đua này lập ra để tưởng nhớ những nỗ lực và công lao của ông, đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc đua trượt tuyết ở Anglo, Thụy Sĩ. Bên cạnh đó, ông đã giành chiến thắng trong sự kiện Slamon của cuộc đua trượt tuyết Oxford Cambridge vào năm 1931.[6]

Tại một sự kiện ở Canada, Bushell đã gặp tai nạn trong lúc trượt tuyết, khi đó ván trượt của ông suýt bắn trúng mắt trái và khiến ông bị một vết thương ở đó. May mắn là ông đã bình phục hoàn toàn sau tai nạn này, nhưng cũng sau vụ tai nạn này ông đã bị sụp mí ở mắt trái do sẹo để lại.[cần dẫn nguồn]

Roger Bushell đã trở nên thông thạo tiếng Pháp và Đức, cùng với một giọng đọc hay và nội lực, điều này đã trở nên vô cùng hữu ích trong thời gian làm tù binh chiến tranh.[cần dẫn nguồn]

Con đường sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Tập tin:RobTuckwithRogerBushell.jpg
Phi đội trưởng Roger Bushell (phải) với Chỉ Huy Cánh Robert, Stanford Tuck.

Sự nghiệp phụ trợ và pháp lý RAF[sửa | sửa mã nguồn]

Ngoài các triển vọng và đam mê về lĩnh vực thể thao, thì một trong những điều Bushell mong muốn nhất từ khi còn nhỏ đó là được bay. Năm 1932, ông gia nhập Lực lượng Không quân Phụ trợ (AAF) của Phi đội số 601, thường được gọi là "Nhóm triệu phú" vì số lượng thanh niên giàu có trả tiền chỉ để học cách bay trong thời gian huấn luyện (thường vào cuối tuần). Ông tham gia hoạt động vào ngày 10/8/1932 và được thăng hàm lên bậc sĩ quan bay vào ngày 10/2/1934. Sau đó ông trở thành trung úy của chuyến bay vào ngày 20/7/1936.

Mặc dù Bushell đang theo đuổi sự nghiệp RAF, nhưng ông vẫn không ngừng tiếp tục nỗ lực để trở thành luật sư của Lincolns Inn , London. [7]. Ngay từ khi bắt đầu sự nghiệp luật sư của mình, ông đã được nhiều người nhận xét rằng ông là một luật sư rất xuất sắc và đặc biệt là trong những lĩnh vực bào chữa hình sự. Sau một thời gian, Bushell đã được bổ nhiệm vào các vụ án quân sự để truy tố các nhân viên RAF bị buộc tội với nhiều tội danh khác nhau, những điều này thường liên quan đến các phi công bị buộc tội bay nguy hiểm. Vào tháng 10/1939, với tư cách là trợ lý cho Sir Patrick Hastings, ông đã bảo vệ thành công hai phi công của RAF là John Freeborn và Paddy Byrne, nhưng sau đó đã bị tòa án hủy bỏ sau sự cố hỏa hoạn giao hữu được gọi là Trận chiến Barking Creek.[8]. Byrne sau đó đã bị giam cùng với Bushell tại Stalag Luft III.[9]


Tập tin:RogerBushellpic.jpg
Từ trái: phi Đội trưởng Roger Bushell, Thăng hàm Eberhardt (an đức) và Paddy Byrne (đồng POW)

Sự nghiệp quân sự thường xuyên[sửa | sửa mã nguồn]

Roger Bushell đã được trao cho quyền chỉ huy Phi đội số 92 vào tháng 10/1939. Sau đó ông được thăng cấp lên lãnh đạo Phi đội và được công nhận vào ngày 1/1/1940. Trong trận chiến đầu tiên của phi đội bay với máy bay địch vào ngày 23/5/1940, khi đang tuần tra gần Calais, để hỗ trợ cho cuộc di tản Dunkirk, ông đã được ghi nhận là làm hỏng hai máy bay chiến đấu Messerschmitt Bf 110 của ZG 26 trước khi bị bắn hạ, đó có thể là một quân sư giỏi trong tương lai của Oberleutnant Günther Specht. Ông đã hạ cánh Spitfire của mình xuống vùng đất do Đức chiếm đóng và ngay sau đó đã bị bắt lại trước khi ông có cơ hội lẩn trốn.

Tù nhân của chiến tranh[sửa | sửa mã nguồn]

Sẽ gây hậu quả tai Hại III giả lập.

Khi đặt chân đến Stalag Luft, ông đã được đưa vào biên chế thường trực của Anh dưới sự chỉ đạo của sĩ quan cao cấp Anh, và cũng là chỉ huy Cánh Harry Day. Nhiệm vụ của nhân viên thường trực là giúp phi hành đoàn đồng minh mới bị bắt để họ thích nghi với cuộc sống như một tù nhân chiến tranh thực thụ.

Vượt ngục - một từ quen thuộc và nó được coi là một nhiệm vụ cần thiết cũng như quan trọng đối với tất cả các tù nhân chiến tranh ở cấp bậc sĩ quan. Ý nghĩ đó cũng luôn hiện diện trong tâm trí của ông và điều may mắn là ông đã có mối quan hệ tốt với một phi công Jimmy Buckley của DayFleet Air Arm. Day giao cho Buckley phụ trách các hoạt động vượt ngục, cùng với Bushell là cấp phó của anh ta. Ba người họ thành lập ủy ban vượt ngục và chịu trách nhiệm về mọi kế hoạch hoạt động trốn thoát.

Lần vượt ngục đầu tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhân viên thường trực của trại đã bắt tay vào việc xây dựng nhiều lối thoát, đường hầm, và một trong số các đường hầm này đã được hoàn thành vào tháng 5/1941. Bushell đã được giao cho một vị trí trong đường hầm, nhưng ông đã được chọn trốn thoát vào cùng một ngày với vụ phá đường hầm bằng cách cắt dây điện bao quanh một công viên nhỏ trong khuôn viên trại. Quyết định không sử dụng đường hầm của ông đã tạo điều kiện để ông có thể trốn thoát sớm hơn, và nhờ đó đã cho phép ông có thể bắt được một chuyến tàu cụ thể.

Không một ai biết rõ ngày vượt ngục chính xác là ngày nào, nhưng có nhiều nguồn tin đã cho rằng cuộc vượt ngục đã xảy ra vào tháng 6/1941. Bushell đã trốn vào một chuồng dê trong trại căn cứ, và đợi đến khi trời đã tối, ông bò tới chỗ các dây điện và đã trốn thoát.

Điều đáng tiếc là Bushell đã bị bắt lại tại biên giới Thụy sĩ, bởi một người lính biên phòng của Đức, nơi đây chỉ cách sự tự do vài trăm mét. Ông đã được đối xử rất tử tế và đã trở về Dulag Luft trước khi ông được chuyển đến Stalag Luft I cùng với tất cả 17 người khác - những người cũng đã tham gia vào cuộc vượt ngục trong đường hầm (bao gồm cả Day và Justin).

Tại thời điểm này Bushell đã sống tại Stalag Luft trong một thời gian ngắn trước khi được chuyển đến Oflag X-C tại Bang thì. Tại trại giam này, ông đã tiếp tục tham gia vào việc xây dựng một đường hầm nhưng việc xây dựng này đã bị bỏ dở khi trại phải sơ tán.

Lần vượt ngục thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]

Tất cả các tù binh sĩ quan của Anh, cùng với Khối thịnh vượng chung đã được đưa ra khỏi trại giam vào ngày 8/10/1941 và ngay sau đó đã bị bắt di chuyển đến Oflag VI-B tại Warburg.

Trong đêm ngày mùng 8, và rạng sáng ngày mùng 9/10/1941, đoàn tàu đã dừng chân lại nghỉ ngơi trong khoảng một thời gian ngắn tại Hannover -nơi mà Bushell và Sĩ quan Phi công Tiệp Khắc Jaroslav Zafouk đã nhảy khỏi tàu và trốn thoát, tại thời điểm đó điều may mắn là họ đã không bị lính canh Đức phát hiện. Trước đó, trong một cuộc hành trình khác, đã từng có 6 sĩ quan khác kịp thời trốn thoát bằng cách nhảy khỏi tàu khi nó đang di chuyển chậm; nhưng không may mắn là đã có một người ngay lập tức bị bắt lại và điều đáng tiếc hơn nữa là một sĩ quan đã thiệt mạng khi bị ngã dưới bánh xe.

Sau đó Bushell và Zafouk đã tiến hành kế hoạch và lên đường tới Praha ở Tiệp Khắc, nơi đây đang bị chiếm đóng. Bằng cách Sử dụng liên lạc của Zafouk, họ đã liên lạc được với gia đình Zeithammel - Otto, con trai ông là - Otokar, và con gái ông là - Blazena - họ là những người được biết đến với các thông tin liên quan tới phong trào ngầm ở cộng hòa Séc. Hai phi công đã ở lại với Zeithammels tại căn hộ ở khu vực Smichov của thành phố. Trong lúc đó, gia đình họ đang cố gắng thu xếp, và lên kế hoạch cho chuyến hành trình tiếp theo . Bushell và Zafouk đã ở với gia đình trong vòng hơn bảy tháng ,trong khoảng thời gian đó Bushell đã phát sinh mối quan hệ tình cảm với Blazena. Vào khoảng giữa tháng 5/1942, các sĩ quan RAF đã bị phản bội bởi một cựu quân nhân Séc tên là Miroslav Kraus - người đã có quan hệ tình cảm với Blazena vài năm trước đó và hiện đang làm công việc cung cấp thông tin cho Gestapo. Các sĩ quan RAF đã bị bắt vào ngày 19/5 và bị thẩm vấn tại trụ sở Gestapo -một tòa nhà được mệnh danh là Cung điện Petschek. Bushell sau đó đã được gửi đến Stalag Luft III tại Sagan, trong khi Zafouk vẫn tiếp tục bị giam giữ tại Prague.

Sau vụ ám sát, người đứng đầu lực lượng SS đã hành động để bảo vệ Bohemia và Moravia - Praha Heydrich vào ngày 27/5 tại Praha, Bushell đã bị đưa từ phòng giam tại Stalag Luft III đến phòng giam ở Berlin để thẩm vấn và truy xét thêm bởi Gestapo - người có nghi ngờ ông có liên quan đến vụ việc giết Heydrich trước đó . Ông đã được thả ra tại Sagan vào tháng 10 nhưng kèm theo thông báo rằng ông sẽ bị sát hại nếu rơi vào tay Gestapo một lần nữa. Cùng lúc đó, Zafouk cũng bị thẩm vấn thêm ở Prague và cuối cùng được gửi đến Oflag IV-C tại Colditz. Điều đáng tiếc ở đây chính là Zeithammels cùng với các thành viên khác của Séc đã bị bắn chết ngay ở dưới lòng đất vào ngày 30/6.


Tại Stalag Luft III, Bushell đã dùng sự thông minh sắc bén của mình để giành được quyền kiểm soát tổ chức trốn thoát từ Jimmy Buckley - người đang được chuyển đến một trại khác ở Ba Lan. Jimmy Buckley còn được biết đến với cái tên "Big X" và không ai khác anh ta chính là chủ mưu của việc xây dựng ba đường hầm lớn: Tom, Dick và Harry; nơi mà sản xuất và tích lũy các tài liệu về cách vượt ngục, giới thiệu các lớp về anh ninh cũng như thu thập thông tin tình báo quân sự, và sau đó gom lại để gửi đến London bằng các chữ cái đã được mã hóa một cách cẩn thận. Lòng căm thù lại một lần nữa bị đốt cháy sau khi ông đã phải chứng kiến sự khủng bố và đau khổ do Đức Quốc xã gây ra: ở Praha đang bị chiếm đóng và các tội ác của Gestapo lúc đầu. Ông quyết tâm tiến hành kế hoạch chiến tranh từ trong trại giam và lên kế hoạch tấn công lại quân Đức. Trong sự kiện được nhiều người biết đến với cái tên "Great Escape", ông đã lên kế hoạch phá vỡ phong trào chiến tranh của Đức Quốc xã bằng cách đưa 250 người ra ngoài trong một đêm.

[10]

Cuộc vượt ngục hoàn hảo[sửa | sửa mã nguồn]

Trong mùa xuân năm 1943, Bushell đã làm chủ mưu cho một âm mưu lên kế hoạch thoát khỏi trại. Ông đang bị giam giữ ở nhà tù phía Bắc nơi các phi công Anh đang trú ngụ, Bushell với tư cách là người cầm đầu của cuộc trốn thoát, ông đã chuyển hướng kế hoạch từ nỗ lực trốn thoát thành tìm kiếm các điểm yếu và cơ hội. Ông dựa vào danh tiếng của bản thân để đại diện cho âm mưu của mình, Bushell đã triệu tập một cuộc họp trong trại và không chỉ gây sốc cho những người có mặt với quy mô nhỏ, mà còn truyền vào mỗi người ở đó là một sự sôi sục, máu lửa và quyết tâm dồn hết sức lực cho cuộc trốn thoát lần này.

Việc đào đồng thời các đường hầm này sẽ trở thành một lợi thế nếu bất kỳ một trong số đó bị quân Đức phát hiện. Lính canh sẽ khó tưởng tượng rằng hai đường hầm khác có thể đang được tiến hành. Khía cạnh cơ bản nhất của kế hoạch không chỉ là quy mô của công trình, mà còn là số lượng người mà Bushell dự định đi qua những đường hầm này. Những nỗ lực trước đây đã liên quan đến việc trốn thoát của hàng chục tù binh, nhưng giờ đây Bushell đang đề xuất đưa hơn 200 người ra ngoài, tất cả đều mặc quần áo dân sự và sở hữu đầy đủ các loại giấy tờ giả mạo và thiết bị thoát hiểm. Đó là một công việc chưa từng có và sẽ yêu cầu một tổ chức có một không hai Là chủ mưu của the Great Escape, Bushell thừa kế tên mã là "X".[2] Các đường hầm "Tom" bắt đầu vào một tối tại góc của một hội trường thuộc một trong những tòa nhà. "Harry"'s lối vào được giấu dưới một cái bếp lò. Lối vào của "Dicks" đã được giấu trong một hệ thống thoát nước của bể chứa.[11]. Hơn 600 tù nhân đã tham gia vào việc xây dựng đường hầm của họ.[12]

Cuối của "Harry" đường hầm đang ở gần lối ra đã được dẫn đến hàng rào của trại

.

Đường hầm Tom đã bị phát hiện vào tháng 9/1943 khi sắp được hoàn thành. Tại thời điểm đó, Bushell cũng có tổ chức một cuộc đột phá. Cuộc đột phá đó xảy ra vào ngày 12/6/1943 đây được gọi là "Tẩy Rận Phá Vỡ" khi 26 sĩ quan đã trốn thoát bằng cách rời khỏi trại với sự hộ tống của hai "giả" bảo vệ (tù binh chiến tranh hóa trang thành bảo vệ) được cho là để đi đến phòng tắm tẩy rận trong các hợp chất ở lân cận. Nhưng tất cả sĩ quan không may ngay sau đó đã bị bắt lại và đưa quay trở về trại. Còn lại hai sĩ quan được gửi đến Oflag IV-C tại Colditz do họ đã cố gắng để ăn cắp một chiếc máy bay.

Việc xây dựng đường hầm Harry đã bị cho dừng lại ngay sau khi phát hiện ra đường hầm Tom, nhưng nó đã được hoạt động trở lại vào tháng 1/1944. Vào đêm ngày 24/3, sau hơn 2 tháng chuẩn bị, 200 sĩ quan đã sẵn sàng chuẩn bị để thoát ra. Nhưng mọi thứ đã không theo kế hoạch, với chỉ có 76 sĩ quan quản lý để nhận rõ địa hình của trại.[cần dẫn nguồn]

Roger và đối tác của ông là Bernard Scheidhauer trong vài lần gặp gỡ khi rời khỏi đường hầm và đi lên, họ đã thành công lên một chuyến tàu tại ga Sagan. Nhưng họ đã bị bắt lại ngay ngày hôm sau tại nhà ga.Saarbrücken để chờ một chuyến tàu đến Alsace nơi đó đã bị sát nhập từ nước Pháp bởi hành động của Đức trong năm 1871. Nhưng nay đã là của Pháp sau Chiến tranh Thế Giới.

Vào ngày 29 với lý do là lái xe đến một trại tù, chiếc xe chở Bushell và Scheidhauer đã dừng lại cho người ở bên các xa lộ gần Ramstein Đức (ngay bên ngoài Căn Cứ Không Quân Ramstein) lên. Dừng lại ở nơi này đã chứng tỏ rằng họ đã bị giết bởi các thành viên của the Gestapo bao gồm cả Emil Schulz và tất cả sự giúp đỡ của những người khác. Đây là một hành vi vi phạm công ước Geneva và điều đó đã tạo thành một tội ác chiến tranh. 50 người trên số 76 người đã bị giết hại trong cuộc "Stalag Luft III" trên các lệnh cá nhân của Adolf Hitler.

Đài tưởng niệm "Những năm Mươi" gần Żagań, Bushell R. J. trên trái cột

[13][14]

Sau khi mất Roger Bushell đã được chôn cất tại nghĩa trang Warsaw Garrison (Sb. mộ 9) trong Pozanan, Ba lan.[7]

Bia mộ của R. J. Bushell trong Và, ba Lan

Bushell đã được đề cập đến trong despatches ngày 8/5/1944 trong bài báo viết về mình như là một "Tù binh chiến tranh". Giải thưởng này đã được ghi lại trong tập London Gazette ngày 13 tháng 6 năm 1946.

Đài tưởng niệm[sửa | sửa mã nguồn]

Con đường mang tên ông - Bushell Green thuộc thành phố London đã được đặt tên theo danh tiếng của ông, một trong số các đường phố trong khu vực có tên theo tên của các phi công là Battle of Britain sau Trận chiến của các phi công Anh.

Ngoài ra, tên của Bushell cũng được xuất hiện trên các đài tưởng niệm chiến tranh tại Kimberley, South Africa, nơi mà cha mẹ của ông đã dành những năm tháng cuối đời của mình và cũng là nơi họ được chôn cất.[15] Vào năm 2017, một đài tưởng niệm đã được xây dựng gần với vị trí ông bị giết, bên ngoài căn cứ không quân Ramstein ngày nay.[16]

Vào năm 1934, Bushell đã đem lòng yêu cô gái tên Georgiana Curzon, nhưng cha của cô gái đã ép buộc cô vào một cuộc hôn nhân không hạnh phúc với một người khác. Nhiều năm sau cái chết của Bushelll, Curzon đã đặt một quảng cáo "In Memoriam" trong Những lần của London vào đúng ngày sinh nhật của ông, với nội dung bài báo "tình yêu là bất tử, Georgie".[17]. Những câu từ tương tự đã được đề cập đến trong một bài báo[18] trên The Times vào năm 2013, bởi Simon Pearson về những người tình của Bushell. Pearson cảm nhận rằng ông đã có cảm tình với Bushell vào một vài năm trước đây, trong khi ông làm việc tại The Times, đến:

. . . qua một thông báo tưởng niệm bị bỏ sót trong kho lưu trữ, nó đã đánh dấu kỷ niệm ngày ra đời của Roger Bushell và cuộc đời của ông. Nó đã được trích dẫn bởi lời của Rupert Brooke: "Ông để lại một nền vinh quang màu trắng không gián đoạn, một ánh hào quang rực rỡ buổi chiều rộng, một ánh bình minh tỏa sáng dưới màn đêm.” Nó đã được ký tên "Georgie".

Di sản[sửa | sửa mã nguồn]

Roger Bushell là cơ sở nền tảng tiêu biểu cho các nhân vật "Bartlett, Roger" trong phim The Great Escape (1963) được đóng bởi diễn viên Richard Vi Dường Như.

Roger Bushell đã được miêu tả và khắc họa bởi tác giả Ian McShane trong phim truyền hình The Great Escape II: Chuyện chưa Kể (1988).

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Danh sách các trại tù binh chiến tranh thế giới thứ hai của Đức
  • Douglas Bader
  • Jens Muller
  • Per Bergsland
  • Bram van der Stok
  • Herbert Massey

Đọc Thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Brickhill, Paul (2000). The Great Escape. London, UK: Cassell & Co. ISBN 0-304-35687-5.
  • Dix-Peek, Ross (1 tháng 2 năm 2010). “The Great Escape and its South African Mastermind”. The South African. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2014.
  • Durand, Arthur (1989). Stalag Luft III: The Secret Story. London, UK: Patrick Stephens. ISBN 978-0-80711-352-3.
  • Meserole, Mike (2008). The Great Escape: The Tunnel to Freedom. New York: Sterling Publications. ISBN 978-1-40275-705-1.
  • Pearson, Simon (15 tháng 8 năm 2013). The Great Escaper: The Life and Death of Roger Bushell – Love, Betrayal, Big X and the Great Escape. Hodder & Stoughton. ISBN 978-1-44476-063-7.
  • Rollings, Charles (2004). Wire and Worse. Hersham, UK: Ian Allan. ISBN 978-0-71103-050-3.
  • Smith, Sydney (1968). Wings Day. London, UK: Collins.
  • Vance, Jonathan F. (2000). A Gallant Company. Pacifica, California: Pacifica Military History. ISBN 978-0-93555-347-5.
  • van der Stok, Bram (1987). War Pilot of Orange. Missoula, Montana: Pictorial Histories Publishing Co. ISBN 978-0-93312-689-3.
  • Walters, Guy (2013). The Real Great Escape. London, UK: Bantam. ISBN 978-0-593-07190-8. 

Liên kết ngoại[sửa | sửa mã nguồn]

[[Thể loại:Thể loại:Tù nhân chiến tranh bị Đức giam giữ trong Thế chiến thứ hai]] [[Thể loại:Thể loại:Mất 1944]] [[Thể loại:Thể loại:Sinh 1910]] [[Thể loại:Category:Roger bushell]] [[Thể loại:Category:Tù nhân chiến tranh Pháp trong thế kỷ 19]] [[Thể loại:Category:Người đến Springs, Gauteng]] [[Thể loại:Category:Những vụ giết người phi pháp]]

  1. ^ “The Fifty”. The Porter Family. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2011.
  2. ^ a b “Squadron Leader Roger Joyce Bushell”. Pegasus Archive.
  3. ^ “Skiing – Universities' Meeting”. The Times. 23 tháng 12 năm 1930.
  4. ^ “University Ski Race”. The Times. 22 tháng 12 năm 1932.
  5. ^ “Skiing – Oxford v. Cambridge”. The Times. 30 tháng 12 năm 1931.
  6. ^ name="times1931">“Skiing – Oxford v. Cambridge”. The Times. 30 tháng 12 năm 1931.
  7. ^ a b “Casualty Details: Bushell, Roger Joyce”. Commonwealth War Graves Commission. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2011.
  8. ^ Yeoman, Christopher; Freeborn, John (2009). Tiger Cub – The Story of John Freeborn DFC. Barnsley: Pen & Sword Aviation. ISBN 978-1-84884-023-2.
  9. ^ Haygood, Tamara Miner. “Malingering and Escape: Anglo-American Prisoners of War in World War II Europe” (PDF). War, Literature and the Arts Online. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2010.
  10. ^ From interviews with Walter Morrison and Sydney Dowse, two former inmates of Stalag Luft III, for the documentary film, For Which I am Prepared to Die, made by Lindy Wilson, a South African film-maker who is Bushell's niece
  11. ^ “Interactive Map of the Tunnel "Harry" used for the Great Escape”. 11 tháng 10 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2008.
  12. ^ “Two Shropshire lads and the Great Escape”. BBC. 24 tháng 5 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2004. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2009.
  13. ^ http://www.wueschner.org/academic/Great%20Escape%20English.htm
  14. ^ “The Great Escape: Setting the record straight”.
  15. ^ “Hermanus War Memorial”.
  16. ^ Wueschner, Silvano. “The Great Escape 24 March 1944”. wueschner.org. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2020.
  17. ^ Brazil, Eddie (2017). Secret High Wycombe. Amberley Publishing Limited. tr. 90. ISBN 9781445665313. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2018.
  18. ^ Simon Pearson, "The love life of the Great Escaper," August 12, 2013, The Times. https://www.thetimes.co.uk/article/the-love-life-of-the-great-escaper-vsd06z5zvq8