USS Fiske (DE-143)

Tàu hộ tống khu trục USS Fiske (DE-143) trên đường đi ngoài khơi New York, tháng 10 năm 1943
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Fiske
Đặt tên theo Bradley A. Fiske
Xưởng đóng tàu Consolidated Steel Corporation, Orange, Texas
Đặt lườn 4 tháng 1, 1943
Hạ thủy 14 tháng 3, 1943
Người đỡ đầu bà Frances O. D. Chalkley
Nhập biên chế 25 tháng 8, 1943
Danh hiệu và phong tặng 1 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bị đánh chìm do trúng ngư lôi từ tàu ngầm U-804, 2 tháng 8, 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp Edsall
Trọng tải choán nước
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 36 ft 7 in (11,15 m)
Mớn nước 10 ft 5 in (3,18 m) (đầy tải)
Công suất lắp đặt 6.000 shp (4.500 kW)
Động cơ đẩy
Tốc độ 21 hải lý trên giờ (39 km/h)
Tầm xa
  • 10.800 hải lý (20.000 km; 12.400 mi)
  • ở vận tốc 12 hải lý trên giờ (22 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 186
Hệ thống cảm biến và xử lý 1 × radar SC
Vũ khí

USS Fiske (DE-143) là một tàu hộ tống khu trục lớp Edsall từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Chuẩn đô đốc Bradley A. Fiske (1854–1942), nhà phát minh hải quân vốn đã sáng chế máy đo tầm xa cho hải pháo và ngư lôi ném từ máy bay.[1] Nó đã phục vụ chủ yếu trong vai trò hộ tống vận tải và tìm-diệt tàu ngầm đối phương cho đến ngày 2 tháng 8, 1944, khi nó trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-boat U-804, và bị đắm giữa Đại Tây Dương. Fiske được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp Edsall có thiết kế hầu như tương tự với lớp Cannon dẫn trước; khác biệt chủ yếu là ở hệ thống động lực Kiểu FMR do được trang bị động cơ diesel Fairbanks-Morse dẫn động qua hộp số giảm tốc đến trục chân vịt. Đây là cấu hình động cơ được áp dụng rộng rãi trên tàu ngầm, được chứng tỏ là có độ tin cậy cao hơn so với lớp Cannon.[2][3]

Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[4][5] Con tàu vẫn giữ lại ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm), và được trang bị radar SC dò tìm không trung và mặt biển. Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 186 sĩ quan và thủy thủ.[4]

Fiske được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Consolidated Steel CorporationOrange, Texas vào ngày 4 tháng 1, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 14 tháng 3, 1943, được đỡ đầu bởi bà Frances O. D. Chalkley, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 25 tháng 8, 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Robert Power Walker.[1][6][7]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại khu vực biển Caribe, Fiske hộ tống một đoàn tàu vận tải đi từ Norfolk, Virginia đến Coco Solo, Panama và quay trở về New York từ ngày 12 đến ngày 25 tháng 11, 1943. Đến ngày 3 tháng 12, nó khởi hành từ Norfolk cho chuyến đầu tiên trong số ba chuyến hộ tống vận tải vượt Đại Tây Dương, xuất phát từ Norfolk hay New York để đi đến Casablanca, Maroc thuộc Pháp. Trong chuyến đi thứ ba vào ngày 20 tháng 4, 1944, đoàn tàu vận tải bị máy bay ném bom-ngư lôi Đức tấn công ở phía Đông Địa Trung Hải, nhưng không máy bay đối phương nào tiếp cận tầm hỏa lực phòng không của con tàu.[1]

Sau khi quay trở về New York vào ngày 21 tháng 5, Fiske gia nhập một đội đặc nhiệm tìm-diệt tàu ngầm, được hình thành chung quanh tàu sân bay hộ tống Wake Island (CVE-65), tại Norfolk vào ngày 10 tháng 6. Đội đặc nhiệm lên đường năm ngày sau đó để tuần tra dọc theo các tuyến hàng vượt Đại Tây Dương, rồi ghé đến Casablanca để nghỉ ngơi và tiếp liệu từ ngày 20 đến ngày 24 tháng 7.[1]

Vào ngày 2 tháng 8, đội đặc nhiệm tung ra một cuộc truy tìm đặc biệt nhắm vào một tàu ngầm U-boat đang trinh sát thời tiết tại khu vực Trung tâm Đại Tây Dương, về phía bắc quần đảo Azores. Fiske và tàu chị em Douglas L. Howard (DE-138) được phái đi xác minh một mục tiêu phát hiện bằng mắt thường, chiếc U-804, đang nổi trên mặt biển. Đối thủ lập tức lặn xuống, và hai chiếc tàu hộ tống khu trục dò được mục tiêu bằng sonar, chuẩn bị áp sát để tấn công. Bất ngờ Fiske trúng phải ngư lôi vào mạn phải phía giữa tàu, rồi bị vỡ làm đôi chỉ sau mười phút, nên phải ra lệnh bỏ tàu; nó đắm tại tọa độ 47°11′B 33°29′T / 47,183°B 33,483°T / 47.183; -33.483.[1][6][7][8] Trong số thành viên thủy thủ đoàn của Fiske, 33 người đã tử trận và 50 người bị thương nặng do vụ nổ, nhưng toàn bộ những người sống sót đã được tàu chị em Farquhar (DE-139) vớt lên và đưa về Boston, Massachusetts.[1][9]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Fiske được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][6]

Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bronze star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Dãi băng Hoạt động Tác chiến
(truy tặng)
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Âu-Châu Phi-Trung Đông
với 1 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Những hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g Naval Historical Center. Fiske I (DE-143). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ Friedman 1982.
  3. ^ Rivet, Eric; Stenzel, Michael. “Classes of Destroyer Escorts”. History of Destroyer Escorts. Destroyer Escort Historical Museum. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2022.
  4. ^ a b Whitley 2000, tr. 300–301.
  5. ^ Friedman 1982, tr. 146, 418.
  6. ^ a b c Yarnall, Paul R. (22 tháng 11 năm 2018). “USS Fiske (DE 143)”. NavSource.org. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2022.
  7. ^ a b Helgason, Guðmundur. “USS Fiske (i) (DE 143)”. uboat.net. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2022.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “USS Fiske (DE 143) - Ship hit by U-boat”. uboat.net. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2022.
  9. ^ Naval Historical Center. Farquhar II (DE-139). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]