Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lương Đắc Bằng”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Chú thích: replaced: {{tham khảo}} → {{tham khảo|2}} using AWB
n Alphama Tool, General fixes
Dòng 1: Dòng 1:
'''Lương Đắc Bằng''' ([[chữ Hán]]: 梁得朋,<ref>[[s:Trang:Viet Nam Su Luoc 1.djvu/279|Việt Nam sử lược/Quyển I/Phần III/Chương XV]]</ref> 1472 - 1522 ), người làng Hội Trào (Hội Triều), huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa (nay là xã Hoằng Phong, huyện [[Hoằng Hóa|Hoằng Hoá]], tỉnh [[Thanh Hóa]]).
'''Lương Đắc Bằng''' ([[chữ Hán]]: 梁得朋,<ref>[[s:Trang:Viet Nam Su Luoc 1.djvu/279|Việt Nam sử lược/Quyển I/Phần III/Chương XV]]</ref> 1472 - 1522), người làng Hội Trào (Hội Triều), huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa (nay là xã Hoằng Phong, huyện [[Hoằng Hóa|Hoằng Hoá]], tỉnh [[Thanh Hóa]]).


Lương Đắc Bằng sinh vào khoảng thế kỷ 15, lúc nhỏ nổi tiếng là người hay chữ, đỗ [[Bảng nhãn]] năm Kỷ Mùi 1499. Ra làm quan, được thăng đến chức Tả Thị Lang [[bộ Lễ]] sau lại thăng lên [[Lục bộ#Bộ Lại|Lại bộ]] [[Thượng thư]], kiêm ''Đông Các Đại học sĩ'', tước ''Đôn Trung bá''. Công thần thời [[Lê Hiến Tông]] (1497-1504) đến [[Lê Tương Dực]] (1510-1516).
Lương Đắc Bằng sinh vào khoảng thế kỷ 15, lúc nhỏ nổi tiếng là người hay chữ, đỗ [[Bảng nhãn]] năm Kỷ Mùi 1499. Ra làm quan, được thăng đến chức Tả Thị Lang [[bộ Lễ]] sau lại thăng lên [[Lục bộ#Bộ Lại|Lại bộ]] [[Thượng thư]], kiêm ''Đông Các Đại học sĩ'', tước ''Đôn Trung bá''. Công thần thời [[Lê Hiến Tông]] (1497-1504) đến [[Lê Tương Dực]] (1510-1516).


Năm 1510, ông thảo hịch kể tội [[Lê Uy Mục]] [http://www.golbook.com/Showdata_insummary.asp?ma12=FHS_131465], khởi binh đánh đổ Uy Mục, lập Tương Dực làm vua [http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=167EaWQ9MTYwNzAmZ3JvdXBpZD0ma2luZD1zdGFydCZrZXl3b3JkPWw=&page=17]. Nhưng Tương Dực làm vua, tình hình cũng không khác trước. Tháng 10 năm Canh Ngọ (1510), ông từng dâng vua "Trị bình thập tứ sách" gồm 14 đề mục chính để trị dân và tạo thái bình :
Năm 1510, ông thảo hịch kể tội [[Lê Uy Mục]] [http://www.golbook.com/Showdata_insummary.asp?ma12=FHS_131465], khởi binh đánh đổ Uy Mục, lập Tương Dực làm vua [http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=167EaWQ9MTYwNzAmZ3JvdXBpZD0ma2luZD1zdGFydCZrZXl3b3JkPWw=&page=17]. Nhưng Tương Dực làm vua, tình hình cũng không khác trước. Tháng 10 năm Canh Ngọ (1510), ông từng dâng vua "Trị bình thập tứ sách" gồm 14 đề mục chính để trị dân và tạo thái bình:


# Răn dạy cho đến nơi để đề phòng các biến dịch.
# Răn dạy cho đến nơi để đề phòng các biến dịch.
Dòng 18: Dòng 18:
# Bớt việc sai dân, giảm nhẹ việc lực dịch để nuôi dưỡng sức dân.
# Bớt việc sai dân, giảm nhẹ việc lực dịch để nuôi dưỡng sức dân.
# Hiệu lệnh cho nhất định, ban hành pháp luật đúng đắn để thống nhất tâm chí bốn phương
# Hiệu lệnh cho nhất định, ban hành pháp luật đúng đắn để thống nhất tâm chí bốn phương
# Cẩn thận phép tắc để mở đường lối thái bình <ref>[http://www.baobinhduong.org.vn/detail.aspx?Item=9061 Lương Đắc Bằng: Dâng sách “Trị Bình” nổi tiếng]</ref>.
# Cẩn thận phép tắc để mở đường lối thái bình <ref>[http://www.baobinhduong.org.vn/detail.aspx?Item=9061 Lương Đắc Bằng: Dâng sách "Trị Bình" nổi tiếng]</ref>.


Trong cuốn [[Nam Hải Dị Nhân]] của tác giả [[Phan Kế Bính]] có chép tiểu sử của ông. Không những là một vị túc nho, ông còn là một đại thần rất cương trực, không ưa bè phái, nên được triều đình và nhân dân trọng vọng. Ông thường được vua cử đi sứ [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] và làm tròn sứ mệnh ngoại giao. Tuy nhiên, triều nhà Lê đã đến lúc suy vong, ông nhận thấy dù đem hết tâm sức ra giúp nước cũng không thể vãn hồi được tình thế. Nhận định về thời cuộc lúc đó, cuốn [[Việt Nam sử lược|Việt Nam Sử Lược]] của [[Trần Trọng Kim]] đã viết như sau: ''"Vua Tương-dực tính hay chơi-bời và xa-xỉ... Thời bấy giờ vua thì hoang chơi, triều-thần thì tuy là có bọn ông Nguyễn văn Lang, ông Lê Tung, ông Lương đắc Bằng, v.v... nhưng người thì già chết, người thì xin thôi quan về. Vả cũng không có ai là người có thể ngăn giữ được vua và kinh-doanh được việc nước, cho nên trong nước giặc-giã nổi lên khắp cả mọi nơi."''
Trong cuốn [[Nam Hải Dị Nhân]] của tác giả [[Phan Kế Bính]] có chép tiểu sử của ông. Không những là một vị túc nho, ông còn là một đại thần rất cương trực, không ưa bè phái, nên được triều đình và nhân dân trọng vọng. Ông thường được vua cử đi sứ [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] và làm tròn sứ mệnh ngoại giao. Tuy nhiên, triều nhà Lê đã đến lúc suy vong, ông nhận thấy dù đem hết tâm sức ra giúp nước cũng không thể vãn hồi được tình thế. Nhận định về thời cuộc lúc đó, cuốn [[Việt Nam sử lược|Việt Nam Sử Lược]] của [[Trần Trọng Kim]] đã viết như sau: ''"Vua Tương-dực tính hay chơi-bời và xa-xỉ... Thời bấy giờ vua thì hoang chơi, triều-thần thì tuy là có bọn ông Nguyễn văn Lang, ông Lê Tung, ông Lương đắc Bằng, v.v... nhưng người thì già chết, người thì xin thôi quan về. Vả cũng không có ai là người có thể ngăn giữ được vua và kinh-doanh được việc nước, cho nên trong nước giặc-giã nổi lên khắp cả mọi nơi."''
Dòng 32: Dòng 32:


== Liên kết ngoài ==
== Liên kết ngoài ==
* [http://www.baobinhduong.org.vn/detail.aspx?Item=9061 Lương Đắc Bằng: Dâng sách “Trị Bình” nổi tiếng]
* [http://www.baobinhduong.org.vn/detail.aspx?Item=9061 Lương Đắc Bằng: Dâng sách "Trị Bình" nổi tiếng]
* [http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=167EaWQ9MTYwNzAmZ3JvdXBpZD0ma2luZD1zdGFydCZrZXl3b3JkPWw=&page=17 Lương Đắc Bằng] trên Bách khoa Toàn thư Việt Nam
* [http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=167EaWQ9MTYwNzAmZ3JvdXBpZD0ma2luZD1zdGFydCZrZXl3b3JkPWw=&page=17 Lương Đắc Bằng] trên Bách khoa Toàn thư Việt Nam



Phiên bản lúc 09:25, ngày 8 tháng 7 năm 2014

Lương Đắc Bằng (chữ Hán: 梁得朋,[1] 1472 - 1522), người làng Hội Trào (Hội Triều), huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa (nay là xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hóa).

Lương Đắc Bằng sinh vào khoảng thế kỷ 15, lúc nhỏ nổi tiếng là người hay chữ, đỗ Bảng nhãn năm Kỷ Mùi 1499. Ra làm quan, được thăng đến chức Tả Thị Lang bộ Lễ sau lại thăng lên Lại bộ Thượng thư, kiêm Đông Các Đại học sĩ, tước Đôn Trung bá. Công thần thời Lê Hiến Tông (1497-1504) đến Lê Tương Dực (1510-1516).

Năm 1510, ông thảo hịch kể tội Lê Uy Mục [1], khởi binh đánh đổ Uy Mục, lập Tương Dực làm vua [2]. Nhưng Tương Dực làm vua, tình hình cũng không khác trước. Tháng 10 năm Canh Ngọ (1510), ông từng dâng vua "Trị bình thập tứ sách" gồm 14 đề mục chính để trị dân và tạo thái bình:

  1. Răn dạy cho đến nơi để đề phòng các biến dịch.
  2. Dốc lòng hiếu để, giữ lòng trung hậu.
  3. Xa thanh sắc để làm gương và chỉnh sắc lòng người.
  4. Bỏ người tà nịnh để nguồn gốc phong hóa được trong sạch.
  5. Dè sẻn trong việc ban đặt quan chức để cẩn thận việc khuyên răn.
  6. Công bằng trong việc bổ dụng để trong sạch đường làm quan.
  7. Tiết kiệm của dùng, tiết độ trong việc dùng tiền tài để khuyến khích thói kiệm ước.
  8. Khen người tiết nghĩa để trọng đạo cương thường.
  9. Cấm triệt để hối lộ.
  10. Sửa soạn võ bị để nước mạnh thế chống giữ.
  11. Chọn chức đài gián (can vua) để cổ vũ chí khí người mạnh dạn dám nói lời ngay thẳng.
  12. Bớt việc sai dân, giảm nhẹ việc lực dịch để nuôi dưỡng sức dân.
  13. Hiệu lệnh cho nhất định, ban hành pháp luật đúng đắn để thống nhất tâm chí bốn phương
  14. Cẩn thận phép tắc để mở đường lối thái bình [2].

Trong cuốn Nam Hải Dị Nhân của tác giả Phan Kế Bính có chép tiểu sử của ông. Không những là một vị túc nho, ông còn là một đại thần rất cương trực, không ưa bè phái, nên được triều đình và nhân dân trọng vọng. Ông thường được vua cử đi sứ Trung Hoa và làm tròn sứ mệnh ngoại giao. Tuy nhiên, triều nhà Lê đã đến lúc suy vong, ông nhận thấy dù đem hết tâm sức ra giúp nước cũng không thể vãn hồi được tình thế. Nhận định về thời cuộc lúc đó, cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim đã viết như sau: "Vua Tương-dực tính hay chơi-bời và xa-xỉ... Thời bấy giờ vua thì hoang chơi, triều-thần thì tuy là có bọn ông Nguyễn văn Lang, ông Lê Tung, ông Lương đắc Bằng, v.v... nhưng người thì già chết, người thì xin thôi quan về. Vả cũng không có ai là người có thể ngăn giữ được vua và kinh-doanh được việc nước, cho nên trong nước giặc-giã nổi lên khắp cả mọi nơi."

Trị bình thập tứ sách được vua khen ngợi nhưng không thi hành. Lương Đắc Bằng cáo quan về nhà, mở trường dạy học tại Lạch Triều và nghiên cứu lý số. Nguyên thời đi sứ Trung hoa, ông có mang về bộ Thái Ất thần kinh để tham khảo. Ông rất thanh liêm và trọng đạo đức, dù làm quan lớn mà gia cảnh rất nghèo, con phải đi gặt thuê để sống (xem Lương Hữu Khánh).

Học trò ông nổi tiếng có Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491), người tỉnh Hải Dương. Nhận thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm tính tình khoáng đạt và thích lý số, nên ông truyền dạy và trao cho toàn bộ Thái Ất thần kinh. Sau này Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ trạng nguyên, làm quan đến chức Lại bộ Thượng Thư nhà Mạc, tước Trình Quốc Công, người đời thường gọi là Trạng Trình, ông có truyền lại cuốn "sấm Trạng Trình" tiên đoán việc đời sau.

Hiện nay, tên của ông được đặt cho nhiều đường phố và 1 trường học tại Thanh Hóa.

Chú thích

Liên kết ngoài