Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Kính phi (Lê Thánh Tông)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Tham khảo: clean up, replaced: {{sơ khai tiểu sử}} → {{sơ khai nhân vật hoàng gia Việt Nam}} using AWB
Eruruu (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
'''Nguyễn Kính phi''' ([[chữ Hán]]: 敬妃阮氏; [[1444]] - [[1495]]), không rõ tên thật, là một [[phi tần]] của [[hoàng đế]] [[Lê Thánh Tông]], vị minh quân nổi tiếng của triều đại [[nhà Hậu Lê]] trong [[lịch sử Việt Nam]].
'''Nguyễn Kính phi''' ([[chữ Hán]]: 敬妃阮氏; [[1444]] - [[1495]]), là một [[phi tần]] rất được sủng ái của [[hoàng đế]] [[Lê Thánh Tông]], vị minh quân nổi tiếng của triều đại [[nhà Hậu Lê]] trong [[lịch sử Việt Nam]].

Kính phi là người huyện [[Lôi Dương]], [[Thanh Hóa|Thanh Hoá]]. Cha bà là Đô đốc thiêm sự Đề đốc 4 vệ Thần vũ [[Nguyễn Đức Nghị]]. Bà mồ côi cha từ nhỏ, được Thái bảo Giản cung hầu [[Lê Hươu]] nhận làm con. Kính phi được nhận xét là người có dung mạo xinh đẹp, cử chỉ theo lễ nghi, là phi tần mà Lê Thánh Tông yêu quý nhất.


==Tiểu sử==
==Tiểu sử==
Kính phi Nguyễn thị là người huyện [[Lôi Dương]], [[Thanh Hóa|Thanh Hoá]]. Cha bà là Đô đốc thiêm sự Đề đốc 4 vệ Thần vũ [[Nguyễn Đức Nghị]] (阮德毅). Bà mồ côi cha từ nhỏ, được Thái bảo Giản Cung hầu [[Lê Hưu]] (黎休) nhận làm con. Kính phi được nhận xét là người có dung mạo xinh đẹp, cử chỉ theo lễ nghi, là phi tần mà Lê Thánh Tông yêu quý nhất.
Năm Quang Thuận thứ nhất ([[1460]]), Thánh Tông lên ngôi, bà được tuyển vào cung. Tháng chín, năm Quang Thuận thứ tư ([[1463]]), bà hạ sinh Minh Kính Công chúa Lê Thuỵ Hoa, đây là công chúa thứ ba của Thánh Tông.

Năm Quang Thuận thứ nhất ([[1460]]), Thánh Tông hoàng đế lên ngôi, bà được tuyển vào cung. [[Tháng 9]], năm Quang Thuận thứ tư ([[1463]]), bà hạ sinh [[Minh Kính công chúa]] Lê Thuỵ Hoa (明敬公主黎瑞华), đây là công chúa thứ ba của Thánh Tông.


Năm [[1466]], bà được phong chức ''Tiệp dư'' (婕妤). Ít lâu sau được thăng lên chức ''Sung dung'' (充容), chuyển đến ở [[Xuân Trường cung]]. Tháng 11, năm Hồng Đức thứ hai ([[1471]]), bà theo lệnh Thánh Tông nhận hoàng tử Tảo làm con nuôi, tức Quảng vương [[Lê Tảo]] (黎鐰).
Năm [[1466]], bà được phong chức ''Tiệp dư'' (婕妤). Ít lâu sau được thăng lên chức ''Sung dung'' (充容), chuyển đến ở [[Xuân Trường cung]]. Tháng 11, năm Hồng Đức thứ hai ([[1471]]), bà theo lệnh Thánh Tông nhận hoàng tử Tảo làm con nuôi, tức Quảng vương [[Lê Tảo]] (黎鐰).


Tháng 3, năm Hồng Đức thứ ba ([[1472]]), bà được phong là ''Tu dung'' (修容), chuyển qua ở [[Thọ Am cung]]. Tháng 6 năm Hồng Đức thứ năm ([[1474]]), bà hạ sinh một công chúa nhưng chết yểu.
[[Tháng 3]], năm Hồng Đức thứ ba ([[1472]]), bà được phong là ''Tu dung'' (修容), chuyển qua ở [[Thọ Am cung]]. Tháng 6 năm Hồng Đức thứ năm ([[1474]]), bà hạ sinh một công chúa nhưng chết yểu.


Tháng 10, năm Hồng Đức thứ tám ([[1477]]), bà được tiến phong làm ''Kính phi'' (敬妃), một trong ''Tam phi'' (三妃) đứng đầu hậu cung.
[[Tháng 10]], năm Hồng Đức thứ tám ([[1477]]), bà được tiến phong làm '''Kính phi''' (敬妃), một trong ''Tam phi'' (三妃) đứng đầu hậu cung. [[Tháng 3]], năm Hồng Đức thứ mười sáu ([[1495]]), bà qua đời vì bệnh, thọ 41 tuổi.

Tháng 3, năm Hồng Đức thứ mười sáu ([[1495]]), bà qua đời vì bệnh, thọ 41 tuổi.


Bà là người [[khiêm tốn]] [[dịu dàng]], vui buồn không lộ ra nét mặt, nói năng với người khác thì dịu dàng thân thiết. Mỗi khi hầu Thánh Tông hay được Thánh Tông sai khiến thì hết lòng yêu kính. Những lúc hoàng đế bị bệnh, bà đều hầu hạ ân cần chu đáo, sớm hôm không trễ nải, khắp hậu cung không ai hơn được. Bà lại ham đọc sách, thông hiểu đại nghĩa, ăn mặc tiêu dùng tiết kiệm, không trang điểm xa hoa. Người đương thời khen là hiền đức.
Bà là người [[khiêm tốn]] [[dịu dàng]], vui buồn không lộ ra nét mặt, nói năng với người khác thì dịu dàng thân thiết. Mỗi khi hầu Thánh Tông hay được Thánh Tông sai khiến thì hết lòng yêu kính. Những lúc hoàng đế bị bệnh, bà đều hầu hạ ân cần chu đáo, sớm hôm không trễ nải, khắp hậu cung không ai hơn được. Bà lại ham đọc sách, thông hiểu đại nghĩa, ăn mặc tiêu dùng tiết kiệm, không trang điểm xa hoa. Người đương thời khen là hiền đức.
Dòng 24: Dòng 22:
{{tham khảo}}
{{tham khảo}}
* [[Đại Việt thông sử]] - Hậu phi truyện.
* [[Đại Việt thông sử]] - Hậu phi truyện.

{{sơ khai nhân vật hoàng gia Việt Nam}}


[[Thể loại:Sinh 1444]]
[[Thể loại:Sinh 1444]]
[[Thể loại:Mất 1495]]
[[Thể loại:Mất 1495]]
[[Thể loại:Nguyên phi Việt Nam]]
[[Thể loại:Nguyên phi Việt Nam]]
[[Thể loại:Người Thanh Hóa]]

Phiên bản lúc 10:30, ngày 31 tháng 7 năm 2015

Nguyễn Kính phi (chữ Hán: 敬妃阮氏; 1444 - 1495), là một phi tần rất được sủng ái của hoàng đế Lê Thánh Tông, vị minh quân nổi tiếng của triều đại nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam.

Tiểu sử

Kính phi Nguyễn thị là người huyện Lôi Dương, Thanh Hoá. Cha bà là Đô đốc thiêm sự Đề đốc 4 vệ Thần vũ Nguyễn Đức Nghị (阮德毅). Bà mồ côi cha từ nhỏ, được Thái bảo Giản Cung hầu Lê Hưu (黎休) nhận làm con. Kính phi được nhận xét là người có dung mạo xinh đẹp, cử chỉ theo lễ nghi, là phi tần mà Lê Thánh Tông yêu quý nhất.

Năm Quang Thuận thứ nhất (1460), Thánh Tông hoàng đế lên ngôi, bà được tuyển vào cung. Tháng 9, năm Quang Thuận thứ tư (1463), bà hạ sinh Minh Kính công chúa Lê Thuỵ Hoa (明敬公主黎瑞华), đây là công chúa thứ ba của Thánh Tông.

Năm 1466, bà được phong chức Tiệp dư (婕妤). Ít lâu sau được thăng lên chức Sung dung (充容), chuyển đến ở Xuân Trường cung. Tháng 11, năm Hồng Đức thứ hai (1471), bà theo lệnh Thánh Tông nhận hoàng tử Tảo làm con nuôi, tức Quảng vương Lê Tảo (黎鐰).

Tháng 3, năm Hồng Đức thứ ba (1472), bà được phong là Tu dung (修容), chuyển qua ở Thọ Am cung. Tháng 6 năm Hồng Đức thứ năm (1474), bà hạ sinh một công chúa nhưng chết yểu.

Tháng 10, năm Hồng Đức thứ tám (1477), bà được tiến phong làm Kính phi (敬妃), một trong Tam phi (三妃) đứng đầu hậu cung. Tháng 3, năm Hồng Đức thứ mười sáu (1495), bà qua đời vì bệnh, thọ 41 tuổi.

Bà là người khiêm tốn dịu dàng, vui buồn không lộ ra nét mặt, nói năng với người khác thì dịu dàng thân thiết. Mỗi khi hầu Thánh Tông hay được Thánh Tông sai khiến thì hết lòng yêu kính. Những lúc hoàng đế bị bệnh, bà đều hầu hạ ân cần chu đáo, sớm hôm không trễ nải, khắp hậu cung không ai hơn được. Bà lại ham đọc sách, thông hiểu đại nghĩa, ăn mặc tiêu dùng tiết kiệm, không trang điểm xa hoa. Người đương thời khen là hiền đức.

Thánh Tông thương tiếc, đặc biệt ban 6 vạn đồng tiền, sai quan trung sứ làm văn tế. Lời văn đại khái nói:

"Ngươi từ tuổi trẻ đã được kén vào cung, đức hạnh dung nghi thật không đáng thẹn. Trời đã ban cho hạnh phúc xanh tươi, thời lại thêm vẻ sao ngời sáng. Cớ sao cuộc thọ yểu gắn liền số mệnh, vội vàng ngươi đã lên tiên?"

Tháng 6, Thánh Tông lại sai quan trung sứ viết lời dụ tế, đưa linh cữu bà về mai táng ở quê gốc Lôi Dương.

Tham khảo