Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Phúc Ngọc Nga”
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 16: | Dòng 16: | ||
| cha = Nguyễn Thế Tổ<br>[[Gia Long]] |
| cha = Nguyễn Thế Tổ<br>[[Gia Long]] |
||
| mẹ = Tiệp dư<br>Dương Thị Dưỡng |
| mẹ = Tiệp dư<br>Dương Thị Dưỡng |
||
| con cái = |
| con cái = 3 con trai<br>2 con gái |
||
}} |
}} |
||
'''Nguyễn Phúc Ngọc Nga''' ([[chữ Hán]]: 阮福玉珴; [[21 tháng 11]] năm [[1796]] – [[1856]]), phong hiệu '''An Thái Công chúa''' (安泰公主), là một [[công chúa]] con vua [[Gia Long]] [[nhà Nguyễn]] trong [[lịch sử Việt Nam]]. |
'''Nguyễn Phúc Ngọc Nga''' ([[chữ Hán]]: 阮福玉珴; [[21 tháng 11]] năm [[1796]] – [[1856]]), phong hiệu '''An Thái Công chúa''' (安泰公主), là một [[công chúa]] con vua [[Gia Long]] [[nhà Nguyễn]] trong [[lịch sử Việt Nam]]. |
||
== Tiểu sử == |
== Tiểu sử == |
||
Hoàng nữ Ngọc Nga sinh ngày 20 tháng 10 (âm lịch) năm [[Bính Thìn]] ([[1796]]), là con gái thứ bảy của vua [[Gia Long]], mẹ là ''Tiệp dư'' Dương Thị Dưỡng<ref>''Nguyễn Phúc tộc thế phả'', tr.262</ref>. Bà Dưỡng nguyên là [[Tài nhân]], sau mới được gia phong [[Tiệp dư]]<ref name=":1">''Đại Nam liệt truyện'', tập 2, quyển 3 – phần '' |
Hoàng nữ Ngọc Nga sinh ngày 20 tháng 10 (âm lịch) năm [[Bính Thìn]] ([[1796]]), là con gái thứ bảy của vua [[Gia Long]], mẹ là ''Tiệp dư'' Dương Thị Dưỡng<ref>''Nguyễn Phúc tộc thế phả'', tr.262</ref>. Bà Dưỡng nguyên là [[Tài nhân]], sau mới được gia phong [[Tiệp dư]]<ref name=":1">''Đại Nam liệt truyện'', tập 2, quyển 3 – phần ''An Thái Công chúa Ngọc Nga''</ref>. |
||
Năm [[Gia Long]] thứ 17 ([[1818]]), tháng 3 (âm lịch), công chúa Ngọc Nga lấy chồng là ''Kiêu kỵ Đô úy'' Nguyễn Đức Thiện, là con trai của ''Khoái Châu Quận công'' [[Nguyễn Đức Xuyên]]<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 1, tr.967</ref>, nhưng phò mã Thiện mất ngay vào năm đó<ref name=":1" />. Công chúa thứ chín của Gia Long là [[Nguyễn Phúc Ngọc Nguyệt|Ngọc Nguyệt]] cũng lấy một người con trai của Khoái Châu Quận công, là Phó Vệ úy Nguyễn Đức Hỗ. |
Năm [[Gia Long]] thứ 17 ([[1818]]), tháng 3 (âm lịch), công chúa Ngọc Nga lấy chồng là ''Kiêu kỵ Đô úy'' Nguyễn Đức Thiện, là con trai của ''Khoái Châu Quận công'' [[Nguyễn Đức Xuyên]]<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 1, tr.967</ref>, nhưng phò mã Thiện mất ngay vào năm đó<ref name=":1" />. Công chúa thứ chín của Gia Long là [[Nguyễn Phúc Ngọc Nguyệt|Ngọc Nguyệt]] cũng lấy một người con trai của Khoái Châu Quận công, là Phó Vệ úy Nguyễn Đức Hỗ. |
||
Dòng 35: | Dòng 35: | ||
== Chú thích == |
== Chú thích == |
||
{{tham khảo}} |
{{tham khảo|2}} |
||
[[Thể loại:Sinh 1796]] |
[[Thể loại:Sinh 1796]] |
Phiên bản lúc 14:05, ngày 13 tháng 3 năm 2020
An Thái Công chúa 安泰公主 | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Thông tin chung | |||||||||
Sinh | 1796 | ||||||||
Mất | 1856 (60 tuổi) | ||||||||
Phu quân | Nguyễn Đức Thiện Vũ Viết Tuấn | ||||||||
Hậu duệ | 3 con trai 2 con gái | ||||||||
| |||||||||
Thân phụ | Nguyễn Thế Tổ Gia Long | ||||||||
Thân mẫu | Tiệp dư Dương Thị Dưỡng |
Nguyễn Phúc Ngọc Nga (chữ Hán: 阮福玉珴; 21 tháng 11 năm 1796 – 1856), phong hiệu An Thái Công chúa (安泰公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử
Hoàng nữ Ngọc Nga sinh ngày 20 tháng 10 (âm lịch) năm Bính Thìn (1796), là con gái thứ bảy của vua Gia Long, mẹ là Tiệp dư Dương Thị Dưỡng[1]. Bà Dưỡng nguyên là Tài nhân, sau mới được gia phong Tiệp dư[2].
Năm Gia Long thứ 17 (1818), tháng 3 (âm lịch), công chúa Ngọc Nga lấy chồng là Kiêu kỵ Đô úy Nguyễn Đức Thiện, là con trai của Khoái Châu Quận công Nguyễn Đức Xuyên[3], nhưng phò mã Thiện mất ngay vào năm đó[2]. Công chúa thứ chín của Gia Long là Ngọc Nguyệt cũng lấy một người con trai của Khoái Châu Quận công, là Phó Vệ úy Nguyễn Đức Hỗ.
Bà Ngọc Nga sau đó cải giá lấy Lãnh binh Trấn Tây là Vũ Viết Tuấn, là con trai cả của Thị nội thống chế Vũ Viết Bảo, có với nhau được ba con trai và hai con gái[2]. Cuối năm Minh Mạng thứ 11 (1840), phò mã Tuấn đem quân cứu viện đồn Sa Tôn, bị thương nặng rồi mất[4]. Vua tiếc thương truy tặng phò mã làm Chưởng vệ, cấp cho 40 lạng bạc và 100 quan tiền, cho một người con được tập ấm[4].
Mãi đến năm Tự Đức thứ 7 (1854), bà Ngọc Nga mới được phong làm An Thái Thái thái trưởng công chúa[5] (安泰太太長公主)[2]. Năm thứ 9 (1856), công chúa mất, thọ 61 tuổi, thụy là Nhu Hòa (柔和)[2].
Tham khảo
- Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc Tộc (1995), Nguyễn Phúc Tộc thế phả, Nhà xuất bản Thuận Hóa
- Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện chính biên, Tổ Phiên dịch Viện Sử học dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa
- Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục chính biên, Tổ Phiên dịch Viện Sử học dịch, Nhà xuất bản Giáo dục