Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Otaku”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
AquaP (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
AquaP (thảo luận | đóng góp)
Đã lùi lại sửa đổi 63860918 của HildaTheFool (thảo luận)
Thẻ: Lùi sửa
Dòng 1: Dòng 1:
[[Tập tin:Symbol Bratislavských otaku.jpg|nhỏ]]
[[Tập tin:Symbol Bratislavských otaku.jpg|nhỏ]]
[[Tập tin:Akihabara picture.jpg|200px|thumb|Khu [[Akihabara]] gần Tokyo, một nơi nổi tiếng dành cho các ''otaku'']]
[[Tập tin:Akihabara picture.jpg|200px|thumb|Khu [[Akihabara]] gần Tokyo, một nơi nổi tiếng dành cho các ''otaku'']]
'''Otaku''' {{nihongo||御宅||hanviet=Ngự trạch|kyu=|hg=おたく|kk=オタク||lead=yes}} là một từ lóng trong [[tiếng Nhật]] dùng ám chỉ một ai đó quá yêu thích, say mê [[anime]] (hoạt hình), [[manga]] (truyện tranh), [[Vocaloid]] hay [[trò chơi điện tử]], cosplay (hóa trang), những thứ 2D (nhân vật trên giấy). Chữ này theo thế giới lại được hiểu chung là những người thích đọc truyện tranh và xem phim hoạt hình, phần lớn mang nghĩa tiêu cực. Theo các nghiên cứu được công bố vào năm 2013, cụm từ này đã trở nên ít tiêu cực hơn và ngày càng có nhiều người bây giờ tự coi mình là ''otaku''<ref name="mynavi">{{Chú thích web | url=http://news.mynavi.jp/news/2013/04/27/076/ | tiêu đề=自分のことを「オタク」と認識してる人10代は62%、70代は23% |dịch tiêu đề= 62% of Teens identify as "otaku", 70's 23% | nhà xuất bản=Mynavi | ngày=ngày 27 tháng 4 năm 2013 | ngày truy cập=ngày 4 tháng 2 năm 2014 | tác giả 1=Michael Jakusoso | url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20130703184904/http://news.mynavi.jp/news/2013/04/27/076 | ngày lưu trữ=ngày 3 tháng 7 năm 2013}}</ref>, kể cả ở Nhật Bản hay bất cứ nơi nào trên thế giới. Trong một cuộc khảo sát vào năm 2013 với sự tham gia của hơn 137,734 thanh thiếu niên, có 42,2% tự nhận mình là một dạng của ''otaku''.<ref name="mynavi"/>
'''Otaku''' {{nihongo||御宅||hanviet=Ngự trạch|kyu=|hg=おたく|kk=オタク||lead=yes}} là một từ lóng trong [[tiếng Nhật]] dùng ám chỉ một ai đó quá yêu thích, say mê [[anime]], [[manga]], [[Vocaloid]], cosplay, những thứ 2D. Chữ này theo thế giới lại được hiểu chung là những người thích đọc truyện tranh và xem phim hoạt hình, phần lớn mang nghĩa tiêu cực. Theo các nghiên cứu được công bố vào năm 2013, cụm từ này đã trở nên ít tiêu cực hơn và ngày càng có nhiều người bây giờ tự coi mình là ''otaku''<ref name="mynavi">{{Chú thích web | url=http://news.mynavi.jp/news/2013/04/27/076/ | tiêu đề=自分のことを「オタク」と認識してる人10代は62%、70代は23% |dịch tiêu đề= 62% of Teens identify as "otaku", 70's 23% | nhà xuất bản=Mynavi | ngày=ngày 27 tháng 4 năm 2013 | ngày truy cập=ngày 4 tháng 2 năm 2014 | tác giả 1=Michael Jakusoso | url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20130703184904/http://news.mynavi.jp/news/2013/04/27/076 | ngày lưu trữ=ngày 3 tháng 7 năm 2013}}</ref>, kể cả ở Nhật Bản hay bất cứ nơi nào trên thế giới. Trong một cuộc khảo sát vào năm 2013 với sự tham gia của hơn 137,734 thanh thiếu niên, có 42,2% tự nhận mình là một dạng của ''otaku''.<ref name="mynavi"/>


Văn hóa ''otaku'' là một chủ đề chính của nhiều anime và các tác phẩm manga, cũng như tài liệu và nghiên cứu học thuật. Thuật ngữ ''Otaku'' bắt đầu vào những năm 1980, như một sự chuyển biến trong tâm lý xã hội và nuôi dưỡng những đặc điểm của ''otaku'' tại các trường học Nhật Bản, kết hợp với việc những cá nhân như vậy tự rút lui để trở thành những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Sự ra đời của nhóm văn hóa này cùng với sự bùng nổ anime sau khi phát hành tựa phim như [[Mobile Suit Gundam]] trước khi nó được phân nhánh thành [[Comic Market]]. Tiểu văn hóa ''otaku'' tiếp tục phát triển song song với sự bành trướng của Internet và phương tiện thông tin truyền thông, cũng như ngày càng nhiều anime, trò chơi điện tử, chương trình truyền hình và truyện tranh được ra đời.<ref>{{Cite journal|last=Okamoto|first=Takeshi|date=2014|title=Otaku Tourism and the Anime Pilgrimage Phenomenon in Japan|journal=Japan Forum|volume=27|pages=12–36|doi=10.1080/09555803.2014.962565}}</ref>
Văn hóa ''otaku'' là một chủ đề chính của nhiều anime và các tác phẩm manga, cũng như tài liệu và nghiên cứu học thuật. Thuật ngữ ''Otaku'' bắt đầu vào những năm 1980, như một sự chuyển biến trong tâm lý xã hội và nuôi dưỡng những đặc điểm của ''otaku'' tại các trường học Nhật Bản, kết hợp với việc những cá nhân như vậy tự rút lui để trở thành những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Sự ra đời của nhóm văn hóa này cùng với sự bùng nổ anime sau khi phát hành tựa phim như [[Mobile Suit Gundam]] trước khi nó được phân nhánh thành [[Comic Market]]. Tiểu văn hóa ''otaku'' tiếp tục phát triển song song với sự bành trướng của Internet và phương tiện thông tin truyền thông, cũng như ngày càng nhiều anime, trò chơi điện tử, chương trình truyền hình và truyện tranh được ra đời.<ref>{{Cite journal|last=Okamoto|first=Takeshi|date=2014|title=Otaku Tourism and the Anime Pilgrimage Phenomenon in Japan|journal=Japan Forum|volume=27|pages=12–36|doi=10.1080/09555803.2014.962565}}</ref>

Phiên bản lúc 08:01, ngày 24 tháng 9 năm 2020

Khu Akihabara gần Tokyo, một nơi nổi tiếng dành cho các otaku

Otaku (Nhật: 御宅 (Ngự trạch)/ おたく/ オタク?) là một từ lóng trong tiếng Nhật dùng ám chỉ một ai đó quá yêu thích, say mê anime, manga, Vocaloid, cosplay, những thứ 2D. Chữ này theo thế giới lại được hiểu chung là những người thích đọc truyện tranh và xem phim hoạt hình, phần lớn mang nghĩa tiêu cực. Theo các nghiên cứu được công bố vào năm 2013, cụm từ này đã trở nên ít tiêu cực hơn và ngày càng có nhiều người bây giờ tự coi mình là otaku[1], kể cả ở Nhật Bản hay bất cứ nơi nào trên thế giới. Trong một cuộc khảo sát vào năm 2013 với sự tham gia của hơn 137,734 thanh thiếu niên, có 42,2% tự nhận mình là một dạng của otaku.[1]

Văn hóa otaku là một chủ đề chính của nhiều anime và các tác phẩm manga, cũng như tài liệu và nghiên cứu học thuật. Thuật ngữ Otaku bắt đầu vào những năm 1980, như một sự chuyển biến trong tâm lý xã hội và nuôi dưỡng những đặc điểm của otaku tại các trường học Nhật Bản, kết hợp với việc những cá nhân như vậy tự rút lui để trở thành những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Sự ra đời của nhóm văn hóa này cùng với sự bùng nổ anime sau khi phát hành tựa phim như Mobile Suit Gundam trước khi nó được phân nhánh thành Comic Market. Tiểu văn hóa otaku tiếp tục phát triển song song với sự bành trướng của Internet và phương tiện thông tin truyền thông, cũng như ngày càng nhiều anime, trò chơi điện tử, chương trình truyền hình và truyện tranh được ra đời.[2]

Định nghĩa otaku sau đó đã trở nên phức tạp hơn, và nhiều phân loại của otaku nổi lên. Năm 2005, học viện nghiên cứu Nomura chia otaku thành mười hai nhóm, sau đó ước tính quy mô và tác động của thị trường đối với mỗi nhóm này. Các tổ chức khác đã chia tách nó chi tiết hơn hoặc tập trung vào một mối quan tâm otaku duy nhất. Những ấn bản này, phân loại các nhóm otaku khác nhau, bao gồm anime, manga, máy ảnh, ô tô, thần tượng và otaku điện tử. Tác động kinh tế của otaku đã được ước tính cao tới 2 nghìn tỷ yên (18 tỷ USD).[3]

Từ nguyên học

Tuy cùng được đọc là otaku nhưng chữ "otaku" với nghĩa cũ và nghĩa chính có nghĩa là "quý ngài" và các Otaku cũng thường gọi nhau là: "Quý ngài!".

Từ otaku có nghĩa tương đương geek hoặc nerd trong tiếng Anh, nhưng khi dùng ở Nhật lại mang tính miệt thị xúc phạm (derogatory) hơn khi dùng ở các nước khác.[4] Chữ "otaku" theo nghĩa tiếng lóng hiện nay, là do nhà báo Nakamori Akio dùng chữ "otaku" trong các bài báo của ông trong thập niên 1980, để gọi đùa những người lúc đó chỉ lo ngồi ở nhà (xem nghĩa chính) ăn chơi[5]. Tuy nhiên, cần lưu ý chữ "otaku" với nghĩa lóng thường viết là (オタク) hay (おたく).

Mặc dù từng bị xã hội miệt thị vì yếu tố tâm lý "khác thường" của họ, song các otaku đã góp phần không nhỏ trong sự phát triển văn hóa của Nhật Bản.

Thuật ngữ weaboo để chỉ những người tự gọi mình là otaku nhưng không thực sự là otaku mà chỉ là những người quá ảo tưởng về thế giới trong các bộ truyện tranh, tiểu thuyết hay phim hoạt hình và lúc nào cũng thể hiện tiếng Nhật hay sống theo văn hóa Nhật Bản ở các nước theo văn hóa khác, ảo tưởng và không chấp nhận cuộc sống hiện tại, luôn mong muốn mình được qua Nhật và trở thành 1 phần của nước Nhật. Còn Wibu được dùng cho những thành phần tự xưng mình là fan cứng anime, hay đi khoe khoang mặc dù chỉ biết chút ít về anime.

Nhưng thuật ngữ wibu cũng bị lạm dụng. khiến nó bị hiểu lầm và được so sánh với từ otaku. Từ đó, người ta thường coi wibu là 1 từ tương đương với otaku, nhưng là người nước ngoài thay vì là người Nhật. Song, đây là 1 quan niệm hoàn toàn sai lầm về wibu.

Thế hệ

Về sự biến đổi lịch sử, ở đây sẽ mô tả thế hệ văn hóa otaku. Nó đã thay đổi theo sự thay đổi của thời đại. Sự phân loại của Hiroki Higashi, với những năm 1960 là thế hệ đầu tiên, những năm 1970 là thế hệ thứ hai và những năm 1980 là thế hệ thứ ba, được sử dụng rộng rãi trong cuộc thảo luận hiện nay. Ở đây, sự khác biệt giữa các cá nhân được loại bỏ và xu hướng của từng thế hệ được xem xét.[6]

Thế hệ tiền otaku (sinh vào những năm 1950)

Họ về cơ bản là một người hâm mộ khoa học viễn tưởng, và mặc dù manga được chấp nhận là thứ mà người lớn có thể đọc do sự xuất hiện của phim truyền hình, họ lớn lên trong bầu không khí "hoạt hình thuộc về trẻ em". Trong thế hệ được gọi là " thế hệ Shirake ", một nhóm người vẽ truyện tranh như một sở thích ngay cả khi đã trưởng thành và đặc biệt thích manga, anime, khoa học viễn tưởng và chỉ trích người đàn ông trần trụi, họ được gọi là những kẻ điên. Các cuộc thi khoa học viễn tưởng và các cuộc thi truyện tranh Nhật Bản mà họ tổ chức là tiền thân của văn hóa dẫn đến sự kiện bán tạp chí phe đảng sau đó.

Thế hệ đầu tiên của otaku (ra đời vào những năm 1930 và 1960)

Sự bùng nổ anime bắt đầu với " Space Battleship Yamato " đã được tạo ra, và nó đặt nền tảng cho các sự kiện cho đến hiện tại như thị trường truyện tranh. Đó là một thế hệ được gọi là "新人類 - con người mới ", Đó là một thế hệ nói với những con quái vật và sự bùng nổ biến đổi như " Ultraman ", " Kamen Rider " và " Mazinger Z ", và thường có sở thích về các hiệu ứng đặc biệt.
Thế hệ tiền otaku (sinh vào những năm 1950) Khoa học viễn tưởng đã đạt đến một sự bùng nổ toàn cầu trong thời này, và công việc của nó đã mang lại những ý nghĩa to lớn cho văn hóa otaku của Nhật Bản. Bộ truyện tranh, phim hoạt hình và khoa học viễn tưởng mà họ thích được coi là đối thủ của những ý tưởng về sự thay đổi xã hội được tổ chức bởi thế hệ bùng nổ. Trong nhiều trường hợp, đã có một sự tập trung mạnh mẽ vào hóa thân, và nó đã được từ khóa như một biệt ngữ trong cộng đồng otaku.

Chú thích

  1. ^ a b Michael Jakusoso (ngày 27 tháng 4 năm 2013). “自分のことを「オタク」と認識してる人10代は62%、70代は23%” [62% of Teens identify as "otaku", 70's 23%]. Mynavi. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2014.
  2. ^ Okamoto, Takeshi (2014). “Otaku Tourism and the Anime Pilgrimage Phenomenon in Japan”. Japan Forum. 27: 12–36. doi:10.1080/09555803.2014.962565.
  3. ^ “Otaku Business Gives Japan's Economy a Lift”. Web-Japan.org. ngày 30 tháng 8 năm 2005. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2013.
  4. ^ Morikawa, Kaichirō (ngày 20 tháng 4 năm 2012). “おたく/ Otaku / Geek”. Center for Japanese Studies UC Berkeley. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2013.
  5. ^ Nguyên văn bài báo của Nakamori, lần đầu tiên chữ otaku được dùng với nghĩa mới
  6. ^ “otaku”.

Liên kết ngoài

Bản mẫu:Fandom