Thành viên:Nguyenhai314/Nháp/ĐAVNCH

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Điện ảnh Việt Nam Cộng hòa, hay Điện ảnh miền Nam Việt Nam là tên gọi ngành công nghiệp điện ảnh của nước Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn từ 1954 đến 1975.

Ở miền Nam Việt Nam, với thị trường tự do nên các hãng phim chủ yếu sản xuất phim thương mại phục vụ khán giả với nhiều thể loại như hành động, tình cảm, tâm lý xã hội, kinh dị...

Khi người Mỹ chính thức tham chiến vào Chiến tranh Việt Nam, cùng với quân đội họ đã mang theo cả văn hóa Âu Mỹ và những công nghệ kỹ thuật mới vào Việt Nam. Điều này ảnh hưởng đến văn hóa nói chung trong đó có điện ảnh. Một yếu tố khác có ảnh hưởng tới điện ảnh của miền Nam thời kỳ này là sự phát triển mạnh của cải lương những năm cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960. Rất nhiều nghệ sĩ điện ảnh xuất thân từ cải lương. Từ năm 1954 tới 1975, có những giai đoạn hoàng kim, như năm 1957, các hãng phim tư nhân điện ảnh miền Nam sản xuất 37 phim.

Lịch sử hình thành và phát triển[sửa | sửa mã nguồn]

Hiệp định Genève năm 1954 chia Việt Nam thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòamiền BắcViệt Nam Cộng hòamiền Nam. Ở miền Nam, hình thành một thị trường điện ảnh với nhiều hãng phim tư nhân. Thị trường này, có thời kỳ suy thoái, có giai đoạn phát triển mạnh mẽ đã sản xuất các bộ phim thuộc nhiều thể loại, đề tài phong phú. Nếu như ở miền Bắc năm 1959 mới xuất hiện bộ phim truyện đầu tiên thì ở miền Nam, điện ảnh đạt tới thời kỳ đỉnh cao ngay từ năm 1957 với nhiều bộ phim được sản xuất, trong đó có phim màu đầu tiên của Việt Nam là phim Lục Vân Tiên[1]. Những đại diện của điện ảnh miền Nam tới tham dự các liên hoan phim ở Châu Á và trong khu vực cũng đã nhận được nhiều giải thưởng.

Giai đoạn 1954-1960[sửa | sửa mã nguồn]

Tập tin:Chung toi muon song.JPG
Chúng tôi muốn sống (1956)

Năm 1955, Phòng Điện ảnh được thành lập. Đến năm 1959 Trung tâm Quốc gia Điện ảnh thuộc Nha Thông tin ra đời, với một đội ngũ những người làm phim gồm 19 đạo diễn, 13 quay phim, 5 chuyên viên thu thanh và 2 chuyên viên dựng phim. Đa số những người này được cố vấn Mỹ dạy tại chỗ hoặc đi tu nghiệp ở nước ngoài trong hai năm từ 1957 đến 1959. Bên cạnh đó còn mời chuyên gia của Philippines đến Sài Gòn hợp tác với một số hãng tư nhân thực hiện những phim tuyên truyền cho chế độ. Trung tâm Điện ảnh chính là nơi đào tạo những chuyên viên điện ảnh đầu tiên của miền Nam.

Điện ảnh khi đó chủ yếu dành cho giới thành thị. Rạp chiếu bóng, mỗi ngày thường chiếu theo xuất, thứ bảy có xuất chiều, chủ nhật thêm xuất sáng. Để thu hút khán giả, các rạp thường mở nhạc các ca sĩ Paul Anka, Andy William, Elvis Presley, Patti Page... Giới trí thức thành thị khi ấy bị ảnh hưởng bởi lối sống Pháp. Các phim tình cảm Pháp thịnh hành, rồi đến những phim miền Tây của Mỹ, phim ca nhạc Ấn Độ.

Giai đoạn 1955 đến 1958, nhiều hãng phim tư nhân được thành lập, tập trung sản xuất loại phim tâm lý xã hội, cổ tích và các đề tài gia đình, truyền thuyết nặng về giải trí. Đây là giai đoạn nở rộ phong trào làm phim cải lương, thần thoại, truyền thuyết, với nhiều bộ phim khơi gợi lòng tự hào của người Việt trong việc ủng hộ phim do người Việt làm ra. Nổi bật nhất trong phong trào làm phim này là các hãng Việt Thanh thành lập năm 1955, Văn Thế năm 1956, Tân Việt điện ảnh năm 1957 do ông Bùi Diễm làm giám đốc. Ngoài ra còn có các hãng phim Trường Sơn, Đông Phương, Liên Hiệp, Viễn Đông, Alpha, Hương Bình...

Các hãng tư nhân sản xuất phim mạnh mẽ, giới thiệu với công chúng một thế hệ diễn viên mới như Kim Cương phim Lòng nhân đạo, Ngọc Bồ Đề; Trang Thiên Kim phim Mục Liên thanh đề, Trương Chi; Lê Thị Nam phim Đồng ruộng miền Nam; Kim Lan phim Người mẹ hiền; Thu Trang phim Lục Vân Tiên; Mai Trâm phim Chúng tôi muốn sống; Khánh Ngọc phim Ràng buộc, Ánh sáng miền Nam; Xuân Dung phim Kim trai thời loạn; Kim Hoàng phim Tiền thân Đức Phật Tổ; Thiên Kim phim Huyền Trân công chúa; Túy Phượng phim Thạch Sanh Lý Thông...

Cuối năm 1956, đạo diễn người Mỹ Joseph L. Mankiewicz tới miền Nam Việt Nam thực hiện phim Người Mỹ trầm lặng (The Quiet American, 1958), bộ phim đầu tiên chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Graham Greene. Đạo diễn Vĩnh Noãn của phim Chúng tôi muốn sống cũng được mời hợp tác cho bộ phim này. Nhưng bộ phim không thành công, bị nhận sự phản đối bởi chính Graham Greene. Diễn viên Laurence Oliver, người được chọn ban đầu, cũng ủng hộ nhà văn và từ chối tới Việt Nam tham gia bộ phim.

Năm 1957 là năm điện ảnh miền Nam hoạt động mạnh nhất. Chỉ trong năm 1957, các hãng phim tư nhân đã sản xuất hơn 37 phim. Do điều kiện trong nước yếu kém về mặt kỹ thuật nên đa số những phim trắng đen, 35 mm. Nếu muốn tạo được sự chuẩn mực về kỹ thuật đều phải thâu thanh tại nước ngoài. Thành công nhất về doanh thu giai đoạn này Quan Âm Thị Kính. Một bộ phim ăn khách khác là Kiếp hoa (1953) của hãng Kim Chung với hai diễn viên Kim ChungKim Xuân, được xem là phim nội địa hay nhất. Diễn viên nữ số một là Kim Cương, người tham gia nhiều phim nhất những năm 1954 đến 1960.

Dịp Giáng Sinh 1957, phim Người đẹp Bình Dương của hãng phim Mỹ Vân với chiến dịch quảng cáo rầm rộ mang đến cho công chúng ngôi sao tương lai Thẩm Thúy Hằng. Cũng năm 1957, Kiều Chinh lần đầu xuất hiện trong phim Hồi chuông Thiên Mụ của đạo diễn Lê Dân, hãng Tân Việt. Năm 1957 cũng là năm đầu tiên Việt Nam sản xuất phim màu Eastman A Color, với cuốn phim Lục Vân Tiên do Tống Ngọc Hạp và Thu Trang (hoa hậu hội chợ Thị Nghè) sản xuất và giữ vai chính, gây sôi nổi một dạo, báo chí phê bình khá nhiều.

Nhưng đến cuối năm 1957, hoạt động sản xuất phim chững lại. Giai đoạn 1958 đến 1960 là giai đoạn thấp nhất của điện ảnh miền Nam so với đỉnh cao là năm 1960. Con số 39 nhà sản xuất phim chỉ còn 9 hãng hoạt động cầm chừng, mỗi năm sản xuất một hai phim, thiếu vốn, phim lỗ, chính sách thuế... Riêng một điểm sáng là phim Đứa con của biển cả đoạt giải thưởng đặc biệt của Liên hoan phim Berlin 1959[2]. Phim này do Trung tâm Quốc gia Điện ảnh thực hiện. Những phim khác trình chiếu có tính cách phóng sự hơn là truyện gồm có Y phục phụ nữ (tiến trình cải biến y phục cổ truyền của đàn bà Việt), Non nước Hương Bình (phong cảnh đất Thần kinh), Sơn mài Việt-Nam (phim màu), Xuân về (phong tục ngày Tết), Điệu xòe sơn cước (vũ điệu người Thái Bắc Việt), Múa tứ linh, Hát bộ, Điệu hò Miền Trung[1]... Chính phủ dùng những độii chiếu phim lưu động để phổ biến phim ở thành thị lẫn nông thôn. [2] Trong khi đó trên thương trường, b áo chí cũng không còn ủng hộ điện ảnh trong nước. Các phim nhập khẩu thao túng thị trường, chiếu trong 120 rạp chiếu bóng tại miền Nam khi ấy. Số lượng phim ngoại nhập vào Sài Gòn từ năm 1954 đến 1960 lên tới 1.850 bộ, trong đó phim Mỹ chiếm tới 85-90%. Vào năm 1962, phim Mỹ chỉ còn đạt được 15,4%, trong khi phim chưởng Hồng Kông và tâm lý xã hội loại "sướt mướt" của Đài Loan lên tới 40,8%. Phim của các nước khác cũng được yêu thích trong thời kỳ này là phim ca nhạc, thần thoại Ấn Độ, phim hiệp sĩ của Nhật Bản.

Giai đoạn 1960-1970[sửa | sửa mã nguồn]

Tập tin:Tham Thuy Hang.JPG
Thẩm Thúy Hằng

Trong giai đoạn khó khăn, vẫn có những người đam mê điện ảnh. Như nhóm Bọn Trẻ của Nguyễn Long và Hoàng Anh Tuấn đã cùng bạn bè góp vốn làm phim. Nguyễn Long với bộ phim dài 100 phút Mưa lạnh hoàng hôn (1961) giới thiệu gương mặt diễn viên Mai Ly. Hoàng Anh Tuấn với phim Trời không muốn sáng. Để cạnh tranh lại với phim Ấn Độ, Hồng Kông... Thái Thúc Nha điện ảnh hóa cải lương với những phim Oan ơi ông Địa (1961), vai chính là Thẩm Thúy Hằng hay Bẽ bàng (1961) với Kim Cương. Nhưng do yếu kém về kỹ thuật và được thực hiện vội vàng, hai phim này cũng bị báo giới chê bai.

Khoảng 1962, 1963 điện ảnh miền Nam bắt đầu hồi sinh trở lại. Nhiều hãng phim mới xuất hiện cùng các dự án làm phim. Thời kỳ này các phim bắt đầu sử dụng kỹ thuât phim màu đơn. Hãng phim Alpha tiên phong với Mưa rừng (1962) có Kim Cương cùng Kiều Chinh. Sau đó là bộ phim tốn kém Đôi mắt người xưa của hãng Liêm Phim, được thực hiện trong ba năm từ 1962 đến 1964. Đây cũng là phim đầu tiên Thanh Nga tham gia, tuy nhiên khánh giả lại biết tới cô với Hai chuyến xe hoa được trình chiếu trước vào 1963.

Đạo diễn Lê Mộng Hoàng cùng kịch sĩ Năm Châu thực hiện Tơ tình do hãng Mỹ Vân sản xuất năm 1963. Tơ tình có sự tham gia của Thẩm Thúy Hằng, La Thoại Tân, Mai Ly và nữ ca sĩ Thanh Thúy. Đây là một bộ phim nặng về âm nhạc, trong phim Thẩm Thúy Hằng trong vai ca sĩ Lệ Trinh. Sau thành công lớn về mặt doanh thu của Tơ tình, hãng Mỹ Vân làm tiếp phim Bóng người đi (1964) do Năm Châu đạo diễn. Phim này Thẩm Thúy Hằng diễn xuất cùng Thành Được, Út Bạch Lan.

Năm 1969, Liên Ảnh Công Ty thực hiện bộ phim màu màn ảnh rộng Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ. Về mặt kỹ thuật đây là bộ phim có những tiến bộ vượt bậc. Ngoài những diễn viên điện ảnh tên tuổi Thẩm Thúy Hằng, Kiều Chinh, Đoàn Châu, phim Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ còn qui tụ các diện viên và soạn giả cải lương như Lê Khanh, Thanh Cao, Ngọc Điệp, Tư Hề, Văn Lượng. Cũng năm 1969, một bộ phim khác đạt kỷ lúc bán vé là Chiều kỷ niệm. Đây là bộ phim đầu tay của nhóm Thẩm Thúy Hằng với đạo diễn là Lê Mộng Hoàng, lời thoại do nghệ sĩ Năm Châu viết. Phim đen trắng, 35 mm dài 1 giờ 45 phút. Ngoài Thẩm Thúy Hằng, Hùng Cường, phim cũng có sự tham gia của các tên tuổi cải lương Năm Châu, Phùng Há, Bảy Ngọc, Thanh Tú... Chỉ trong tuần lễ công chiếu đầu tiên tại rạp Rex, Chiều kỷ niệm đã thu về 1 triệu đồng. Sau vài tuần, con số doanh thu lên tới 10 triệu.

Vào những năm này, để có nhạc cảnh và ca khúc trên phim, các hãng thường đặt các nhạc sĩ như Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ, Huỳnh Anh viết. Giọng ca do các ca sĩ như Thái Thanh, Hoài Trung... thể hiện để diễn viên xuất hiện trên phim nhép miệng.

Nhưng phim khác đáng chú ý trong giai đoạn này có thể kể đến: Loạn, Yêu (1964), Dang dở (1965), Giã từ bóng tối (1969), Trai thời loạn (1969)... Ngoài Thẩm Thúy Hằng, Kiều Chinh, Thanh Nga, Kim Cương, điện ảnh còn ghi nhân những tên tuổi Kim Vui, Mộng Tuyền, Thảo Sương, Kim Xuân, Thanh Lan, Thiên Trang, Ngọc Minh... Đạo diễn sung sức nhất thời kỳ này là Lê Mông Hoàng. Năm 1966, tại Đại hội điện ảnh Á Châu lần thứ 13, nữ diễn viên Xuân Dung đã được trao tặng giải thưởng nữ Diễn viên Xuất sắc nhất với vai diễn trong phim Đôi mắt người xưa do hãng Liêm Phim sản xuất. Đây là giải thưởng quốc tế lớn đầu tiên của các diễn viên điện ảnh miền Nam.

Giai đoạn 1970-1975[sửa | sửa mã nguồn]

Tập tin:Thanhnga.jpg
Thanh Nga

Cuối thập niên 1960 ở miền Nam, trong khi cải lương ngày càng sa sút thì điện ảnh lại phát triển mạnh mẽ, bước vào thời kỳ hoàng kim. Với hơn 30 hãng phim hoạt động, kinh doanh điện ảnh thực sự có lãi. Số lượng phim tăng lên nhanh chóng: năm 1970 có 6 phim, năm 1971 có 24 phim và đỉnh cao là năm 1972 với 29 phim. Các hãng phim đã nhìn xa trông rộng, biết tìm đối tác, hợp tác cùng các nước trong khu vực để sản xuất. Nếu như trước đây, các hãng phim muốn nhập phim nước ngoài thì phải tự mình sản xuất một phim trong một năm, thì từ năm 1969, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho phép nhập phim tự do. Mặc dù vậy, việc làm phim trong nước với nhiều dự án vấn phát triển mạnh mẽ.

Ngoài các diễn viên cải lương, điện ảnh còn chứng kiến sự lấn sân của các diễn viên kịch, ca sĩ như: Bạch Tuyết với những phim Như hạt mưa sa, Như giọt sương khuya, Lan và Điệp, Con ma nhà họ Hứa; Băng Châu, Bạch Liên với Men tình mùa hạ, Hoa mới nở; Như Loan với Đời chưa trang điểm; Phương Hồng Ngọc với Nắng chiều, Nàng; Phương Hoài Tâm, Thanh Lan với Tiếng hát học trò, Trường tôi; Trang Thanh Lan với Xa lộ không đèn; Ngọc Đan Thanh với Quái nữ Việt quyền đạo; Mai Lệ Huyền với Gác chuông nhà thờ, Ly rượu mừng; Tuyết Lan, Quốc Dũng với Trường tôi; Kiều Phượng Loan, Bạch Lan Thanh...

Từ năm 1970, điện ảnh Việt Nam Cộng hòa liên tục cử nhiều đoàn đi tham dự các liên hoan phim quốc tế tại Tây Đức, Ấn Độ, Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Campuchia... Được sự quan tâm của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, năm 1970, Giải thưởng Điện ảnh ra đời. Các hãng Mỹ Vân, Cosunam phim, Việt Nam Phim, Giao Chỉ phim... xin phép những dự án xây dựng phim trường. Từ cuối 1969, các phim sản xuất bắt đầu là phim màu, thường được in tráng ở nước ngoài, nhiều nhất là ở Nhật Bản. Chính phủ còn miễn thuế nhập cảng phim nhựa màu, tạo điều kiện cho các nhà làm phim. Liên tiếp trong các năm 1971, 1972, 1973, 1974 ở các kỳ liên hoan phim trong khu vực, Việt Nam Cộng hòa đều gặt hái được những giải thưởng tôn vinh các diễn viên Kiều Chinh, Thanh Nga, Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương...

Giai đoạn này, đề tài làm phim cũng đa dạng hơn, phục vụ thị hiếu đông đảo khán giả. Con mà nhà họ Hứa sản xuất trong hai năm 1972 và 1973 là bộ phim kinh dị đầu tiên của Việt Nam. Phim của Dạ Lý Hương phim, đạo diễn Lê Hoàng Hoa với các diễn viên Năm Châu, Bạch Tuyết, Thanh Tú, Dũng Thanh Lâm, Tư Rọm... đã thắng lớn về doanh thu. Những bộ phim hài như Năm vua hề về làng (1974), Tứ quái Sài Gòn (1973), Sợ vợ mới anh hùng (1974) đều là những phim ăn khách, thu hút khán giả tới rạp. Khi đó điện ảnh võ thuật Hồng Kông đang có sức hấp dẫn mạnh mẽ nên một số nhà làm phim cũng đi theo hướng này. Tiêu biểu như Long hổ sát đấu (1972), Hận thù, Quái nữ Việt quyền đạo.

Một số tác phẩm văn học cũng được các nhà làm phim đưa lên màn ảnh như Trống mái (1971), Gánh hàng hoa (1971) dựa theo tiểu thuyết của Tự Lực văn đoàn, Điệu ru nước mắt (1971), Vết thù trên lưng ngựa hoang (1971) của nhà văn Duyên Anh, Chân trời tím (1970) của Văn Quang. Một đề tài hấp dẫn nữa là khai thác thế giới giang hồ, vũ nữ với những phim Sau giờ giới nghiêm (1972), Xa lộ không đèn (1972), Vết thù trên lưng ngựa hoang (1971), Mãnh lực đồng tiền (1971)... Cùng với đó phản ánh đời sống của giới trẻ thành thị Loan mắt nhung (1970), Hoa mới nở (1974), Hè 72, Anh yêu em...

Loan mắt nhung năm 1970 của đạo diễn Lê Dân được xem là bộ phim chân thực hấp dẫn phản ánh đúng một bộ phận thanh thiếu niên Sài Gòn thời ấy. Phim dài 1 giờ 45 phút, phỏng theo truyện xã hội đen của Nguyễn Thụy Long, người đã sống một thời gian dài cùng du dãng và gái điếm. Với các diễn viên Huỳnh Thanh Trà trong vai Loan mắt nhung, Thanh Nga trong vai Xuân, người yêu của Loan mắt nhung, Ngọc Phu trong vai Thanh Italy, Kim Xuân vai Dung... phim có nhiều tình tiết éo le, những cảnh vũ trường ăn chơi của Sài Gòn.

Tập tin:Nguoi tinh khong chan dung.JPG
Kiều Chinh trong Người tình không chân dung (1971)

Cuối năm 1969, đầu 1970, Liên Ảnh công ty bỏ ra một số tiền khổng lồ 14 triệu đồng cho Lê Hoàng Hoa làm phim Chân trời tím dựa theo tiểu thuyết của Văn Quang. Ban đầu Liên Ảnh công ty mời Kiều Chinh đóng vai Liên và đạo diễn được chọn là Hoàng Vĩnh Lộc, nhưng do thời gian chuẩn bị quá lâu nên hai nhân vật này bận phim khác đã từ chối. Về sau được thực hiện với các diễn viên Hùng Cường vai Phi, Thanh Lan vai Phượng, Kim Vui vai Liên, Ánh Nga vai Loan. Ca khúc chính của bộ phim là nhạc phẩm Nửa hồn thương đau[3] rất nổi tiếng của Phạm Đình Chương. Bộ phim được quay 3 tháng trời, với 100 xe tăng, 45 máy bay trực thăng, 300 xe cơ giới đủ loại, 600 diễn viên chính phụ và đã thu vào 94 triệu đồng[4].

Bên cạnh đó, một số phim ca ngợi hình ảnh người lính quân đội Cộng hòa, tuyên truyền cho chính quyền miền Nam như Người tình không chân dung (1971), Xin nhận nơi này làm quê hương (1968), Người về từ đỉnh núi... Người tình không chân dung của hàng Giao Chỉ phim thực hiện năm 1970 do Hoàng Vĩnh Lộc đạo diễn. Kiều Chinh trong vai chính Mỹ Lan, một phát thanh viên giữ mục Tâm tình chiến sĩ trên đài phát thanh dấn thân vào chiến trường tìm người yêu. Tuy được thực hiện với một kinh phí hạn hẹp, nhưng phim đã đoạt giải chủ đề phim xuất sắc nhất và nữ tài tử chính khả ái nhất tại Đại hội điện ảnh Á Châu lần thứ 17 tổ chức tại Đài Bắc vào ngày 6 tháng 6 năm 1971.

Cuối năm 1974, hoạt động làm phim vẫn diễn ra sôi động. Lê Hoàng Hoa làm bộ phim kinh dị Giỡn mặt tử thần với Thẩm Thúy Hằng, Phương Uyên. Thẩm Thúy Hằng cũng cùng với đạo diễn Lưu Bạch Đàn lên kế hoạch hợp tác với Nhật Bản quay bộ phim Tình khúc thứ 10, Hòn vọng phu... Ngày Điện ảnh Việt Nam 14 tháng 9 năm 1974, Thái Thúc Nha làm chủ tịch đã phát động phong trào ủng hộ điện ảnh với khẩu hiệu "Người Việt xem phim Việt". Hãng phim Mỹ Vân xây dựng hoàn chỉnh phim trường lớn ở xa lộ Biên Hòa. Dịp tết 1975, màn ảnh Sài Gòn nhộn nhịp với nhiều phim mới được công chiếu: Hải vụ 709, Từ quê ra tỉnh, Nữ quái sợ ma...

Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 chấm dứt nền điện ảnh của miền Nam Việt Nam thời kỳ này. Cho đến tận khi đó, một vài bộ phim như Giỡn mặt tử thần... vẫn chưa kịp công chiếu.

Nhà làm phim tên tuổi[sửa | sửa mã nguồn]

Diễn viên nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ "Điện ảnh Việt Nam". Thê giới Tự do Tập X Số 4. Sài Gòn: Sở Thông tin Hoa Kỳ, 1961.
  2. ^ "Thành-tích của Bộ Công-dân vụ, Nha Thông-tin, Việt Tấn Xã" Hồ sơ thành tích hoạt động 7 năm của Chính phủ (1954-1961). Sài Gòn: Nha Thông tin, 1961. Tr 96-97