USS Dogfish (SS-350)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm USS Dogfish (SS-350)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Dogfish
Đặt tên theo tên chung của nhiều loài cá nhám
Xưởng đóng tàu Electric Boat Company, Groton, Connecticut[1]
Đặt lườn 22 tháng 6, 1944 [1]
Hạ thủy 27 tháng 10, 1945 [1]
Người đỡ đầu bà Armand M. Morgan
Nhập biên chế 29 tháng 4, 1946 [1]
Xóa đăng bạ 28 tháng 7, 1972 [1]
Số phận Chuyển cho Brazil, 28 tháng 7, 1972 [1]
Brazil
Tên gọi Guanabara (S-10)
Trưng dụng 28 tháng 7, 1972
Số phận tháo dỡ, 1983
Đặc điểm khái quát(ban đầu)
Lớp tàu Balao
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 1.526 tấn Anh (1.550 t) (mặt nước) [2]
  • 2.414 tấn Anh (2.453 t) (lặn)[2]
Chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m) [2]
Sườn ngang 27 ft 3 in (8,31 m) [2]
Mớn nước 16 ft 10 in (5,13 m) tối đa [2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[5]
Tầm hoạt động
  • 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h)[5]
  • 75 ngày (tuần tra)
Độ sâu thử nghiệm 400 ft (120 m)[5]
Thủy thủ đoàn tối đa 10 sĩ quan, 70 thủy thủ[5]
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • radar SD phòng không [6]
  • radar SJ dò tìm mặt biển [6]
Vũ khí
Đặc điểm khái quát(Guppy II)
Trọng tải choán nước
  • 1.870 tấn Anh (1.900 t) (mặt nước) [8]
  • 2.440 tấn Anh (2.480 t) (lặn) [8]
Chiều dài 307 foot (93,6 m) [9]
Sườn ngang 27 foot 4 inch (8,3 m) [9]
Mớn nước 17 foot (5,2 m) [9]
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • Mặt nước:
  • 18 hải lý trên giờ (33,3 km/h) tối đa
  • 13,5 hải lý trên giờ (25,0 km/h) đường trường
  • Lặn:
  • 16 hải lý trên giờ (29,6 km/h) trong ½ giờ
  • 9 hải lý trên giờ (16,7 km/h) với ống hơi
  • 3,5 hải lý trên giờ (6,5 km/h) đường trường [8]
Tầm xa 15.000 hải lý (28.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 11 hải lý trên giờ (20 km/h)[9]
Tầm hoạt động 48 giờ lặn ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h) [9]
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 9–10 sĩ quan
  • 5 chuẩn úy
  • 70 thủy thủ [9]
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • sonar chủ động WFA
  • sonar thụ động JT
  • hệ thống kiểm soát hỏa lực ngư lôi Mk 106 [9]
Vũ khí

USS Dogfish (SS-350) là một tàu ngầm lớp Balao được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên chung của nhiều loài cá nhám. Hoàn tất quá trễ để có thể phục vụ trong Thế Chiến II, nó đã được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY II để tiếp tục hoạt động trong cuộc Chiến tranh Lạnh. Con tàu được chuyển cho Brazil vào năm 1972 để tiếp tục phục vụ như là chiếc Guanabara (S-10), và cuối cùng bị tháo dỡ vào năm 1983.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[10] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[6][11] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[3] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[3][4] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[3] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[5] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[5]

Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[5] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[6] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[12][13]

Dogfish được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Electric Boat CompanyGroton, Connecticut vào ngày 22 tháng 6, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 27 tháng 10, 1945, được đỡ đầu bởi bà Armand M. Morgan, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 29 tháng 4, 1946 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Thomas Slack Baskett.[14][15][16]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

USS Dogfish[sửa | sửa mã nguồn]

Đặt căn cứ tại New London, Connecticut, Dogfish hoạt động tại chỗ và thực hiện những chuyến đi sang vùng biển CaribeBermuda để thực hành huấn luyện. Nó được đại tu và hiện đại hóa tại Xưởng hải quân Philadelphia từ tháng 8, 1947 đến tháng 4, 1948, trong khuôn khổ Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY II), giúp cải thiện đáng kể tốc độ lặn dưới nước và tầm xa hoạt động. Sau đó con tàu được sử dụng trong các dự án thử nghiệm cũng như các hoạt động thường lệ từ căn cứ New London. Từ ngày 31 tháng 10 đến ngày 19 tháng 11, 1948, nó tham gia cuộc tập trận hạm đội quy mô lớn, trải dài từ vùng biển ngoài khơi Florida cho đến eo biển Davis giữa LabradorGreenland. [14]

Từ ngày 4 tháng 2 đến ngày 3 tháng 4, 1949, Dogfish vượt Đại Tây Dương để viếng thăm Scotland, AnhPháp. Nó cũng tham gia cuộc tập trận hộ tống vận tải ngoài khơi mũi Hatteras trong tháng 2tháng 3, 1952, và hoạt động dọc theo vùng bờ Đông và vùng biển Caribe trong suốt ba năm tiếp theo. [14]

Khởi hành từ New London vào ngày 1 tháng 3, 1955, Dogfish có lượt phục vụ đầu tiên cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải, rồi quay trở về cảng nhà vào ngày 6 tháng 6. Nó tham gia vào cuộc tập trận "New Broom" của Khối NATO vào năm 1956, và nhân dịp này đã viếng thăm Halifax, Nova Scotia từ ngày 4 tháng 6 đến ngày 14 tháng 6. Đến ngày 8 tháng 11, đang khi hoạt động tại chỗ từ căn cứ New London, nó đã cứu nạn và trợ giúp chữa cháy cho tàu đánh cá Agda. Chiếc tàu ngầm có chuyến đi sang vịnh Faslane, Scotland từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 12 tháng 4, 1958 để đánh giá thiết bị mới, rồi từ ngày 23 tháng 5 đến ngày 8 tháng 8, 1959 đã có thêm một lượt phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải. Sang tháng 10tháng 11, nó tham gia cuộc tập trận chống tàu ngầm của Khối NATO.[14]

Guanabara (S-10)[sửa | sửa mã nguồn]

Dogfish được cho xuất biên chế đồng thời rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 28 tháng 7, 1972.[15][16] Con tàu được bán cho Brazil trong khuôn khổ Chương trình viện trợ quân sự, và phục vụ cùng Hải quân Brazil như là chiếc Guanabara (S-10).[15][16] Nó ngừng hoạt động và bị tháo dỡ vào năm 1983.[15][16]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f Friedman 1995, tr. 285–304
  2. ^ a b c d e Bauer & Roberts 1991, tr. 275-280
  3. ^ a b c d e f g h Bauer & Roberts 1991, tr. 270-280
  4. ^ a b Friedman 1995, tr. 261-263
  5. ^ a b c d e f g h i j k l Friedman 1995, tr. 305–311
  6. ^ a b c d Johnston, David L. (tháng 7 năm 2019). “A Visual Guide to the U.S. Fleet Submarines Part Three: Balao and Tench Classes 1942–1950” (PDF). Navsource Naval History. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2022.
  7. ^ a b Lenton 1973, tr. 79
  8. ^ a b c d e f g Friedman 1994, tr. 11-43
  9. ^ a b c d e f g h Friedman 1994, tr. 242
  10. ^ Friedman 1995, tr. 99–104
  11. ^ Friedman 1995, tr. 208–209
  12. ^ Alden 1979, tr. 48, 97
  13. ^ Blair 2001, tr. 65
  14. ^ a b c d Naval Historical Center. Dogfish (SS-350). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  15. ^ a b c d Yarnall, Paul R. “Dogfish (SS-350)”. NavSource.org. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2022.
  16. ^ a b c d Helgason, Guðmundur. “Dogfish (SS-350)”. uboat.net. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2022.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]