Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Châu thổ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
Dòng 1: Dòng 1:
[[Tập_tin:EbroRiverDelta_ISS009-E-09985.jpg|nhỏ|Tam giác châu [[Ebro|sông Ebro]] ở [[Địa Trung Hải]].]]
[[Tập tin:River delta.svg|nhỏ|Đồng bằng châu thổ]]
[[Tập_tin:Sacramento_Delta_at_flood_stage,_2009.jpg|nhỏ|Tam giác châu nội lục Sacramento–San Joaquin vào khoảng gian lụt lớn, đầu tháng 3 năm 2009.]]
'''Châu thổ''' là một địa mạo cấu tạo khi một dòng [[sông]] chảy vào một vụng nước, nhỏ là [[hồ]], đầm [[phá]], lớn là [[vịnh]], [[biển]] hay [[đại dương]] khiến dòng nước bị cản chậm lại. Chất [[phù sa]] cuốn theo dòng nước khi tốc độ nước không đủ mạnh sẽ phải lắng đọng xuống, bồi lên lòng sông và hai bên bờ. Lượng [[trầm tích]] lan tỏa theo bề rộng làm lòng sông chuyển từ hẹp và sâu sang càng nông và rộng. Nhiều nhánh sông [[phân lưu]] nhỏ xuất hiện, giúp trải rộng [[cửa biển]]. Địa hình đặc trưng này gọi là châu thổ sông.
'''Châu thổ''', hoặc gọi '''tam giác châu''', là một thứ hình thái [[địa mạo]] bề mặt [[Trái Đất]], [[cửa sông]] là điểm cuối cùng của [[Sông|dòng sông]], tức là chỗ mà dòng sông đổ vào [[biển]] - [[đại dương]], [[hồ]] hoặc [[Sông|dòng sông]] khác. [[Lòng chảo nội lục|Hồ nội lưu]] không chảy vào [[hồ]] gọi là sông không đuôi, có thể không có [[cửa sông]]. Mặt cắt ở cửa sông mở rộng, tốc độ dòng nước đột nhiên giảm, thường hay có lắng đọng trầm tích [[bùn]] [[cát]] số lượng nhiều, cho nên hình thành '''[[bãi cạn]] [[Tam giác|hình tam giác]]''', gọi là tam giác châu. Phần đỉnh của tam giác châu hướng về thượng du dòng sông, rìa ngoài hướng về biển cả, có thể coi làm "cạnh đáy" của hình tam giác.<ref>Uỷ ban biên soạn "Đại từ điển khoa học môi trường". Đại từ điển khoa học môi trường (bản sửa chữa) [M]. Nhà xuất bản khoa học môi trường Trung Quốc, năm 2008.</ref>

[[Tiếng Anh|Chữ Anh]] của tam giác châu là delta, delta cũng biểu thị chữ cái thứ tư Δ trong [[Bảng chữ cái Hy Lạp|bảng chữ cái Hi Lạp]]. Ngoài ra, Δ trong [[Bảng chữ cái Hy Lạp|bảng chữ cái Hi Lạp]] có hình trạng giống tam giác châu, nên có người cho biết đây là khởi nguyên biểu tượng của chữ cái Δ.

== Giới thiệu giản lược ==
Tam giác châu là thế hệ trầm tích bùn cát do dòng sông bổ sung và cung cấp, là sản phẩm do tác dụng hỗ tương các nhân tố "động lực - lắng đọng trầm tích - địa mạo", phân bố ở khu vực có [[Sông|dòng sông]] đổ vào [[biển]] - [[đại dương]] hoặc [[hồ]]. Hình thái mặt phẳng của nó phần nhiều hiện ra [[Tam giác|hình tam giác]], điểm đỉnh hướng về thượng du, mặt đáy hướng về biển bên ngoài, là do hai bộ phận trên đất liền và dưới nước hợp thành.

Điều kiện cơ bản hình thành tam giác châu chủ yếu quyết định ở quy luật cơ bản thay đổi dòng nước ở khu vực [[cửa sông]]. Do đó, các nhân tố như [[Sông|dòng sông]], kiến tạo hải dương, [[khí hậu]] và [[Địa lý tự nhiên|địa lí tự nhiên]] [[lưu vực]], đều ảnh hưởng sâu sắc đến đặc trưng lắng đọng trầm tích và loại hình hình thái của tam giác châu ở các mức độ khác nhau. Căn cứ vào sự khác nhau vị trí bộ phận địa mạo của nó, từ đất liền hướng về biển, thông thường đem tam giác châu chia làm tầng tích đỉnh, tầng tích trước và tầng tích đáy.

== Đặc trưng địa lí ==
Tam giác châu là [[Đồng bằng phù sa|đồng bằng bồi tích]] mà dòng sông chảy vào biển - đại dương, hồ hoặc dòng sông khác, vì nguyên do tốc độ chảy giảm thấp, và mang theo trầm tích bùn cát số lượng nhiều nên dần dần phát triển thành. Tam giác châu nếu được hình thành do đổ vào hồ, hoặc dòng sông thì gọi là ''tam giác châu sông nội lục''. Tuy nhiên, có một số dòng sông trực tiếp tích tụ phù sa trên đất liền làm thành tam giác châu, nhưng mà chưa đổ vào hệ thống sông khác, tam giác châu loại này gọi là ''tam giác châu nội lục'', là một loại của tam giác châu sông nội lục.

Tam giác châu cũng gọi là đồng bằng cửa sông, nhìn từ góc độ mặt phẳng, giống [[Tam giác|hình tam giác]], phần đỉnh hướng về thượng du, cạnh đáy là rìa ngoài của nó, cho nên gọi là tam giác châu, diện tích tích tam giác châu khá lớn, [[Phẫu diện đất|tầng đất]] dày và sâu, mạng lưới sông phân bố dày đặc, mặt ngoài bằng phẳng, tính chất đất màu mỡ, dễ có [[lụt]] lớn.

=== Phân bố địa lí ===
Chỗ đổ vào biển của các sông lớn trên thế giới, phần nhiều đều có một tam giác châu. Thí dụ như chỗ đổ vào biển của [[sông Nin]] [[Ai Cập]] (sông dài nhất thế giới), thì có một tam giác châu cực kì to lớn, diện tích đạt tới 24.000 kilômét vuông; chỗ đổ vào biển của [[sông Mississippi]] [[Hoa Kỳ|Hoa Kì]] (sông dài thứ tư thế giới), hiện ra hình dạng chân chim, diện tích 12.000 kilômét vuông; chỗ đổ vào biển của [[Trường Giang|sông Trường Giang]] (sông dài thứ ba thế giới), [[Hoàng Hà|sông Hoàng Hà]] (dài thứ năm thế giới) và [[Châu Giang (sông Trung Quốc)|sông Châu Giang]] [[Trung Quốc]], cũng đều có tam giác châu với diện tích rất lớn.

=== Ưu thế địa chất ===
Khu vực tam giác châu thông thường địa thế thấp và bằng phẳng, mạng lưới sông phân bố dày đặc, do đó phần nhiều là vùng đất cày ruộng và trồng trọt rất tốt. Thí dụ tam giác châu ở cửa sông của [[Châu Giang (sông Trung Quốc)|sông Châu Giang]] và [[Trường Giang|sông Trường Giang]], đều là khu nông nghiệp sản lượng cao. Tam giác châu [[Hoàng Hà|sông Hoàng Hà]] mặc dù đất đai màu mỡ, nhưng mà bởi vì bị ảnh hưởng của muối kiểm nên điều kiện cày ruộng trồng trọt hơi kém một chút.

Nó khác nhau với đồng bằng bồi tích hình quạt lông ở sát gần chân núi. Diện tích đồng bằng bồi tích hình quạt lông khá nhỏ, [[Phẫu diện đất|tầng đất]] khá mỏng, bán chất kết cấu vật liệu là [[cát]] và [[đá vụn]], tính chất không màu mỡ giống tam giác châu.

Vùng đất tam giác châu không những là vùng canh nông rất tốt mà cũng có lợi tương đương đối với việc hình thành [[Dầu mỏ|dầu đốt thô]] và [[khí thiên nhiên]], rất nhiều [[Mỏ dầu|mỏ dầu khí]] nổi tiếng trên thế giới đều phân bố ở vùng đất tam giác châu.


== Quá trình hình thành ==
== Quá trình hình thành ==

Phiên bản lúc 23:12, ngày 17 tháng 10 năm 2020

Tam giác châu sông EbroĐịa Trung Hải.
Tam giác châu nội lục Sacramento–San Joaquin vào khoảng gian lụt lớn, đầu tháng 3 năm 2009.

Châu thổ, hoặc gọi tam giác châu, là một thứ hình thái địa mạo bề mặt Trái Đất, cửa sông là điểm cuối cùng của dòng sông, tức là chỗ mà dòng sông đổ vào biển - đại dương, hồ hoặc dòng sông khác. Hồ nội lưu không chảy vào hồ gọi là sông không đuôi, có thể không có cửa sông. Mặt cắt ở cửa sông mở rộng, tốc độ dòng nước đột nhiên giảm, thường hay có lắng đọng trầm tích bùn cát số lượng nhiều, cho nên hình thành bãi cạn hình tam giác, gọi là tam giác châu. Phần đỉnh của tam giác châu hướng về thượng du dòng sông, rìa ngoài hướng về biển cả, có thể coi làm "cạnh đáy" của hình tam giác.[1]

Chữ Anh của tam giác châu là delta, delta cũng biểu thị chữ cái thứ tư Δ trong bảng chữ cái Hi Lạp. Ngoài ra, Δ trong bảng chữ cái Hi Lạp có hình trạng giống tam giác châu, nên có người cho biết đây là khởi nguyên biểu tượng của chữ cái Δ.

Giới thiệu giản lược

Tam giác châu là thế hệ trầm tích bùn cát do dòng sông bổ sung và cung cấp, là sản phẩm do tác dụng hỗ tương các nhân tố "động lực - lắng đọng trầm tích - địa mạo", phân bố ở khu vực có dòng sông đổ vào biển - đại dương hoặc hồ. Hình thái mặt phẳng của nó phần nhiều hiện ra hình tam giác, điểm đỉnh hướng về thượng du, mặt đáy hướng về biển bên ngoài, là do hai bộ phận trên đất liền và dưới nước hợp thành.

Điều kiện cơ bản hình thành tam giác châu chủ yếu quyết định ở quy luật cơ bản thay đổi dòng nước ở khu vực cửa sông. Do đó, các nhân tố như dòng sông, kiến tạo hải dương, khí hậuđịa lí tự nhiên lưu vực, đều ảnh hưởng sâu sắc đến đặc trưng lắng đọng trầm tích và loại hình hình thái của tam giác châu ở các mức độ khác nhau. Căn cứ vào sự khác nhau vị trí bộ phận địa mạo của nó, từ đất liền hướng về biển, thông thường đem tam giác châu chia làm tầng tích đỉnh, tầng tích trước và tầng tích đáy.

Đặc trưng địa lí

Tam giác châu là đồng bằng bồi tích mà dòng sông chảy vào biển - đại dương, hồ hoặc dòng sông khác, vì nguyên do tốc độ chảy giảm thấp, và mang theo trầm tích bùn cát số lượng nhiều nên dần dần phát triển thành. Tam giác châu nếu được hình thành do đổ vào hồ, hoặc dòng sông thì gọi là tam giác châu sông nội lục. Tuy nhiên, có một số dòng sông trực tiếp tích tụ phù sa trên đất liền làm thành tam giác châu, nhưng mà chưa đổ vào hệ thống sông khác, tam giác châu loại này gọi là tam giác châu nội lục, là một loại của tam giác châu sông nội lục.

Tam giác châu cũng gọi là đồng bằng cửa sông, nhìn từ góc độ mặt phẳng, giống hình tam giác, phần đỉnh hướng về thượng du, cạnh đáy là rìa ngoài của nó, cho nên gọi là tam giác châu, diện tích tích tam giác châu khá lớn, tầng đất dày và sâu, mạng lưới sông phân bố dày đặc, mặt ngoài bằng phẳng, tính chất đất màu mỡ, dễ có lụt lớn.

Phân bố địa lí

Chỗ đổ vào biển của các sông lớn trên thế giới, phần nhiều đều có một tam giác châu. Thí dụ như chỗ đổ vào biển của sông Nin Ai Cập (sông dài nhất thế giới), thì có một tam giác châu cực kì to lớn, diện tích đạt tới 24.000 kilômét vuông; chỗ đổ vào biển của sông Mississippi Hoa Kì (sông dài thứ tư thế giới), hiện ra hình dạng chân chim, diện tích 12.000 kilômét vuông; chỗ đổ vào biển của sông Trường Giang (sông dài thứ ba thế giới), sông Hoàng Hà (dài thứ năm thế giới) và sông Châu Giang Trung Quốc, cũng đều có tam giác châu với diện tích rất lớn.

Ưu thế địa chất

Khu vực tam giác châu thông thường địa thế thấp và bằng phẳng, mạng lưới sông phân bố dày đặc, do đó phần nhiều là vùng đất cày ruộng và trồng trọt rất tốt. Thí dụ tam giác châu ở cửa sông của sông Châu Giangsông Trường Giang, đều là khu nông nghiệp sản lượng cao. Tam giác châu sông Hoàng Hà mặc dù đất đai màu mỡ, nhưng mà bởi vì bị ảnh hưởng của muối kiểm nên điều kiện cày ruộng trồng trọt hơi kém một chút.

Nó khác nhau với đồng bằng bồi tích hình quạt lông ở sát gần chân núi. Diện tích đồng bằng bồi tích hình quạt lông khá nhỏ, tầng đất khá mỏng, bán chất kết cấu vật liệu là cátđá vụn, tính chất không màu mỡ giống tam giác châu.

Vùng đất tam giác châu không những là vùng canh nông rất tốt mà cũng có lợi tương đương đối với việc hình thành dầu đốt thôkhí thiên nhiên, rất nhiều mỏ dầu khí nổi tiếng trên thế giới đều phân bố ở vùng đất tam giác châu.

Quá trình hình thành

Châu thổ sông hình thành khi một con sông mang theo trầm tích tiếp xúc với một vùng nước đứng, như một đại dương, hồ, hoặc hồ chứa. Khi dòng chảy đi vào vùng nước đứng, nó không còn bị giới hạn bởi bờ sông nữa và sẽ tỏa rộng. Điều này làm giảm vận tốc dòng chảy, cũng có nghĩa là làm giảm khả năng vận chuyển trầm tích. Kết quả là, trầm tích giảm di chuyển và lắng xuống. Theo thời gian, lòng sông duy nhất này sẽ biến thành thùy châu thổ (một vùng với nhiều phân lưu có dạng như chân chim mà người ta có thể quan sát ở châu thổ sông Mississippi hoặc châu thổ sông Ural), đẩy miệng sông đi xa hơn nữa vào trong vùng nước đứng. Khi thùy châu thổ phát triển, các gradien của lòng sông giảm đi do dòng sông dài thêm nhưng độ dốc không thay đổi. Đến khi độ dốc của lòng sông giảm đi, nó trở nên không ổn định vì hai lý do. Thứ nhất, nước dưới lực hấp dẫn sẽ có xu hướng chảy thẳng theo hướng dốc nhất. Nếu dòng sông có thể vi phạm đê tự nhiên của nó (tức là, trong khi lũ lụt), nó sẽ tràn ra theo một dòng chảy mới và ngắn nhất đến đại dương, do đó có được một độ dốc dốc hơn và ổn định hơn.[2] Thứ hai, khi độ dốc của lòng sông giảm, lượng biến dạng nén xuống đáy sẽ giảm, làm cho trầm tích lắng xuống ngay tại lòng sông, dẫn tới đáy lòng sông trở nên cao thêm tương đối so với mặt vùng lũ. Điều này sẽ làm cho sông càng dễ vi phạm đê tự nhiên và mở ra một dòng chảy mới vào vùng nước đứng với độ dốc lớn hơn. Thường thì những khi như thế, một phần nước sông có thể vẫn chảy qua dòng chảy đã bị bỏ. Khi có sự thay đổi dòng chảy ở một châu thổ đã trưởng thành, một mạng lưới phân lưu sẽ được tạo ra.

Danh sách vùng châu thổ nổi tiếng

Vùng châu thổ sông HằngẤn ĐộBangladesh, một trong những khu vực đồng bằng màu mỡ nhất trên thế giới

Tham khảo

  1. ^ Uỷ ban biên soạn "Đại từ điển khoa học môi trường". Đại từ điển khoa học môi trường (bản sửa chữa) [M]. Nhà xuất bản khoa học môi trường Trung Quốc, năm 2008.
  2. ^ Slingerland, R. and N. D. Smith (1998), Necessary conditions for a meandering-river avulsion, Geology (Boulder), 26, 435-438.

Liên kết ngoài