Bước tới nội dung

Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Bà chúa xứ)
Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam
Di tích quốc gia
Thông tin miếu
ThờBà Chúa Xứ
Địa chỉViệt Nam Phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An GiangViệt Nam
Thành lập1824
Xây mới1870
Lễ hộiLễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam: 23 – 27/4 âm lịch hàng năm
Map
Di tích quốc gia
Khu di tích núi Sam
Phân loạiDanh lam thắng cảnh
Ngày công nhận10 tháng 7 năm 1980
Một phần củaKhu di tích núi Sam
Quyết định92-VHTT/QĐ

Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam tọa lạc nơi chân núi Sam, trước thuộc xã Vĩnh Tế, nay thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, Việt Nam.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam là một di tích (lịch sử, kiến trúc và tâm linh) quan trọng của tỉnh và của khu vực.

Việc thờ cúng Bà Chúa Xứ (主處聖母, Chúa Xứ Thánh Mẫu) được xem là trong tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam.

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được tổ chức trang trọng từ ngày 23 đến 27 tháng 4 âm lịch hàng năm, và được Bộ Văn hóa Thông tinTổng cục Du lịch Việt Nam công nhận là Lễ hội cấp Quốc gia từ năm 2001.

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]

Trước thế kỷ XVIII, tượng Bà được dân địa phương phát hiện và khiêng xuống từ đỉnh núi Sam bởi 9 cô gái đồng trinh, theo như lời dạy của Bà qua miệng "cô đồng", nên người dân đã lập miếu để tôn thờ [1].

Có ý kiến cho rằng Thoại Ngọc Hầu hoặc vợ là bà Châu Thị Tế là người đã ban lệnh và hỗ trợ việc xây dựng miếu. Tuy khó xác minh, nhưng biết chắc là miếu ra đời sau khi vị quan này về đây trấn nhậm và kênh Vĩnh Tế đã hoàn tất (1824) mang lại lợi ích rõ rệt cho lưu dân và dân bản địa [2].

Kiến trúc

[sửa | sửa mã nguồn]
Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam

Ban đầu miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam được cất đơn sơ bằng tre , nằm trên vùng đất trũng phía tây bắc núi Sam, lưng quay về vách núi, chính điện nhìn ra con đường và cánh đồng làng.

Năm 1870, ngôi miếu được xây dựng lại bằng gạch hồ ô dước. Năm 1962, ngôi miếu được tu sửa khang trang bằng đá miểng và lợp ngói âm dương. Năm 1965, Hội quý tế cho xây nới rộng nhà khách và làm hàng rào nhà chính điện của ngôi miếu. Năm 1972, ngôi miếu được tái thiết lớn và hoàn thành vào năm 1976, tạo nên dáng vẻ như hiện nay, và người thiết kế là hai kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng và Nguyễn Bá Lăng.

Đến khi ấy, kiến trúc miếu có dạng chữ "quốc", hình khối tháp dạng hoa sen nở, mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói đại ống màu xanh, góc mái vút cao như mũi thuyền đang lướt sóng. Bên trong miếu có võ ca, chánh điện, phòng khách, phòng của Ban quý tế...

Các hoa văn ở cổ lầu chính điện, thể hiện đậm nét nghệ thuật Ấn Độ. Phía trên cao, các tượng thần khỏe mạnh, đẹp đẽ giăng tay đỡ những đầu kèo. Các khung bao, cánh cửa đều được chạm trổ, khắc, lộng tinh xảo và nhiều liễn đối, hoành phi ở nơi đây cũng rực rỡ vàng son. Đặc biệt, bức tường phía sau tượng Bà, bốn cây cột cổ lầu trước chính điện gần như được giữ nguyên như cũ.

Ở thời điểm năm 2009, thì miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam là "ngôi miếu lớn nhất Việt Nam"[3].

Tượng Bà Chúa Xứ Núi Sam

[sửa | sửa mã nguồn]
Bên trong Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam

Khi xưa, tượng Bà ngự trên đỉnh núi Sam, gần Pháo Đài. Chứng minh cho điều này là bệ đá Bà ngồi vẫn còn tồn tại (ảnh). Bệ đá có chiều ngang 1,60m; dài 0,3m, chính giữa có lỗ vuông cạnh 0,34m, loại trầm tích thạch màu xanh đen, hạt nhuyễn, không có ở địa phương.

Theo nhà khảo cổ học người Pháp là Malleret đến nghiên cứu vào năm 1941, thì tượng Bà Chúa Xứ Núi Sam thuộc loại tượng thần Vishnu (nam thần), tạc dáng người nghĩ ngợi, quý phái, có giá trị nghệ thuật cao, được tạc vào cuối thế kỷ 6 bằng đá son, và rất có thể đây một trong số hiện vật cổ của nền văn hóa Óc Eo [4].

Sau này, nhà văn Sơn Nam cũng đã chép rằng: Tượng của Bà là pho tượng Phật đàn ông của người Khmer, bị bỏ quên lâu đời trên đỉnh núi Sam. Người Việt đưa tượng vào miễu, điểm tô lại với nước sơn, trở thành đàn bà mặc áo lụa, đeo dây chuyền. Và từ đó "Bà Chúa Xứ" là vị thần có quyền thế lớn ở khu vực ấy, xứ ấy...[5]

Cũng theo lời truyền miệng dân gian, thì khi xưa có một nhóm người đến quấy nhiễu nơi đây. Gặp tượng Bà, họ muốn lấy đi nhưng xê dịch không được nên tức giận đập gãy cánh tay trái của pho tượng [6].

Chung quanh tượng Bà (đặt ở giữa chính điện), còn có bàn thờ Hội đồng (phía trước), Tiền hiền và Hậu hiền (hai bên), bàn thờ Cô (bên phải, có thờ một tượng nữ thần nhỏ bằng gỗ), bàn thờ Cậu (bên trái, có thờ một Linga bằng đá rất to, cao khoảng 1,2m)...

Theo sách Kỷ lục An Giang, 2009, thì tượng Bà là "pho tượng bằng đá sa thạch xưa nhất Việt Nam", và "có áo phụng cúng nhiều nhất"[7].

Việc thờ cúng

[sửa | sửa mã nguồn]
Nơi Bà ngự khi xưa trên đỉnh núi Sam

Lễ Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được tổ chức trang trọng từ ngày 23 đến 27 tháng 4 âm lịch hàng năm, trong đó ngày vía chính là ngày 25. Các lễ chính gồm:

  • Lễ "tắm Bà" được cử hành vào lúc 0 giờ đêm 23 rạng 24 tháng 4 âm lịch.
  • Lễ "thỉnh sắc" tức rước sắc và bài vị Thoại Ngọc Hầu cùng hai phu nhân từ Sơn lăng về miếu bà, được cử hành lúc 15 giờ chiều ngày 24.
  • Lễ túc yết và Lễ xây chầu: Lễ "túc yết" là lễ dâng lễ vật (lễ vật chính là con heo trắng) và tiến hành nghi thức cúng Bà, lúc 0 giờ khuya đêm 25 rạng 26. Ngay sau đó, là "Lễ xây chầu" mở đầu cho việc hát bộ (còn gọi là hát bội hay hát tuồng).
  • Lễ chánh tế được cử hành vào 4 giờ sáng ngày 27.
  • Lễ hồi sắc được cử hành lúc 16 giờ chiều cùng ngày, ngay sau khi Lễ chánh tế kết thúc. Đây là lễ đem sắc và bài vị Thoại Ngọc Hầu cùng hai phu nhân về lại Sơn lăng.

Theo tín ngưỡng của người dân, nơi đây vẫn còn có những tục như xin xăm Bà, vay tiền Bà, thỉnh bùa Bà...

Ý nghĩa việc thờ cúng

[sửa | sửa mã nguồn]
Rất nhiều áo và vật quý do người hiến cúng cho Bà, được trưng bày ở đây. Mấy năm trước, tòa nhà này từng dùng làm trường học.

Nhà văn Sơn Nam viết:

Bà Chúa Xứ, dạng đạo Lão dân gian, thu hút bá tánh nhiều nhất Nam Bộ. Cất bên chùa Tây An nhưng trong "Đại Nam nhất thống chí" không ghi tên, phải chăng đời Tự Đức và khi Pháp đến hồi cuối thế kỷ 19, miễu hãy còn khiêm tốn, khách hành hương chỉ là người phụ cận mà thôi. Miễu phát triển về sau, qua thời kháng Pháp rồi chống Mỹ...[8]
... Lăng Thoại Ngọc Hầu được trùng tu, rồi lập miếu thờ trang nghiêm như đình làng, nhưng vẫn không đáp ứng được yêu cầu của con người khi quá đau khổ, bế tắc. Miễu bà Chúa Xứ được nâng cấp, thay cho miễu sơ sài... Đây là dạng tu tiên, một dạng như: Tây Vương Mẫu, Cửu Thiên Huyền Nữ, hoặc Liễu Hạnh công chúa... nên việc thờ phượng, cúng vái để "tự nhiên", khách có thể ăn mặc lòe loẹt, trai gái đùa giỡn, cúng rượu thịt... Vị trí miễu Bà bên núi Sam hội đủ: Sông rộng, đồi núi trập trùng, vùng biên giới... Người hành hương cảm thấy được thỏa mãn về tâm thần, hòa mình vào"sơn hà xã tắc", "khí thiêng sông núi"…[9]

Theo Nguyễn Đức Toàn, thì:

Theo bước đường Nam tiến của dân tộc Việt, chúa Liễu đã từ Phủ Giầy (Nam Định), Đền Sòng (Thanh Hóa) đi về phương Nam, tạm dừng ở điện Hòn Chén (Huế) và gặp bà Pô Nưgar tại Nha Trang, gặp bà Đen (Linh Sơn Thánh Mẫu) ở Tây Ninh và bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc... Tất cả các bà đều là một Mẹ duy nhất trong tâm thức của tín ngưỡng và tập tục thờ mẫu của người Việt...[10]

Sách Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch giải thích thêm:

Do ảnh hưởng Phật giáo, Lão giáo cùng với các tín ngưỡng đồng bóng của dân gian mà các vị thần được thờ chủ yếu là nữ, như: Thánh mẫu Liễu Hạnh, Thượng Ngàn, Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Động, Bà Cố Hỷ, Bà Thủy, Bà Hỏa...Và Bà Chúa Xứ trở thành một dạng như "Phật Bà Quan Âm" (đối với người Việt), "Bà Mã Hậu" hay "Thiên Hậu Nương Nương" (đối với người Hoa). Bà được tin tưởng đến độ có rất nhiều huyền thoại về "quyền lực linh thiêng" của Bà trong việc "ban phúc, giáng họa" cho con người. Như hai câu liễn đối treo ở miếu Bà như sau:
Cầu tất ứng, thí tất linh, mộng trung chỉ thi
Xiêm khả kính, Thanh khả mộ, ý ngoại nan lường.
Tạm dịch:
Xin thì được, ban thì linh, báo trong giấc mộng
(Người) Xiêm sợ hãi, (Người) Hoa kính mộ, ý tứ khôn lường[1].

Từ năm 2001, lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được Bộ Văn hóa Thông tinTổng cục Du lịch Việt Nam công nhận là Lễ hội cấp Quốc gia. Ngoài phần Lễ được tổ chức trang trọng theo lối cổ truyền, phần Hội cũng được tổ chức trọng thể hàng năm.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Theo Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch, tr.345-346.
  2. ^ Lê Ngọc Bích nhận định miếu lập vào năm 1824 và chỉ lớn lao, đông người đến lễ bái vào thế kỷ 20 [1].
  3. ^ Nguồn: Nhiều người soạn, Kỷ lục An Giang 2009. Nhà xuất bản Thông Tấn, 2010, tr. 96.
  4. ^ Theo Lịch sử Miếu bà Chúa Xứ Núi Sam, tr. 10 và 12.
  5. ^ Theo Sơn Nam, Đồng bằng sông Cửu Long-nét sinh hoạt xưa, tr.149-150.
  6. ^ Theo Lịch sử Miếu bà Chúa Xứ Núi Sam, sách đã dẫn, tr. 8.
  7. ^ Nguồn: Kỷ lục An Giang 2009, đã dẫn. Theo Ban quản trị miếu Bà cho biết, năm 2009, trong miếu lưu giữ khoảng 15.000 áo do người hành hương dâng cúng.
  8. ^ Đình miễu và lễ hội dân gian, tr. 40.
  9. ^ Sơn Nam,Lịch sử An Giang, tr. 157
  10. ^ Quan hệ Chăm Việt trong lịch sử qua tín ngưỡng dân gian, Tạp chí Dân tộc học số 4, 1994, tr.55.

Sách tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Sơn Nam, Đình miễu và lễ hội dân gian. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
  • Sơn Nam, Lịch sử An Giang. Nhà xuất bản Tổng hợp An Giang, 1987.
  • Sơn Nam, Đồng bằng sông Cửu Long-nét sinh hoạt xưa. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1985.
  • Nhiều người soạn, Địa chí An Giang (Tập 2). UBND tỉnh An Giang tổ chức biên soạn và ấn hành, 2007.
  • Trường đào tạo nghiệp vụ du lịch Sài Gòn tổ chức biên soạn, Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
  • Nhiều người soạn, Lịch sử Miếu bà Chúa Xứ Núi Sam. Hội Văn học Nghệ thuật Châu Đốc ấn hành, 2006.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Một số bài viết liên quan đến chùa miếu ở An Giang
Chùa Linh SơnMiếu Bà Chúa XứChùa Phật LớnChùa Ông BắcChùa Tây AnĐình Mỹ PhướcChùa Giồng ThànhChùa Phước ĐiềnChùa Phi Lai, Chùa Tam BửuĐền thờ Quản cơ Trần Văn ThànhĐình Châu PhúChùa Xà Tón