Ho gà
| Pertussis | |
|---|---|
| Chuyên khoa | bệnh truyền nhiễm |
| ICD-10 | A37 |
| ICD-9-CM | 033 |
| Patient UK | Ho gà |
Ho gà (tiếng Anh: Whooping cough) là ho từng chuỗi kế tiếp nhau, càng lúc càng nhanh rồi yếu dần, sau đó có giai đoạn hít vào thật sâu nghe như tiếng gà gáy, sau cơn ho thì mặt đỏ môi tím, hai mí mắt sưng, tĩnh mạch cổ nổi.
Ho gà là một trong các bệnh rất hay lây và làm chết nhiều người nhất trong các loại bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc-xin. Mỗi năm có khoảng 30 - 50 triệu bệnh nhân ho gà và 300 ngàn tử vong (theo thống kê của WHO) [cần dẫn nguồn]. Đa số tử vong ở trẻ dưới 1 tuổi. Hơn 90% căn bệnh xảy ra tại các nước chậm tiến.
Bệnh do vi trùng Bordetella pertussis gây ra; một chứng ho tương tự nhưng nhẹ hơn do Bordetella parapertussis.[1]
Lịch sử từ thời thế kỷ 12 đã có mô tả chứng bệnh ho gà, đến năm 1578 thì Guillaume de Baillou liệt kê về căn bệnh rõ ràng hơn.[2] Vi trùng B. pertussis được Jules Bordet và Octave Gengou tìm ra năm 1906, sau đó họ bào chế được vắc-xin ngừa hệnh ho gà. Toàn bộ genome của B. pertussis (gồm 4.086.186 cặp base) được xác định năm 2002.
Nguyên nhân
[sửa | sửa mã nguồn]Sau 7 - 10 ngày ủ bệnh, trẻ bị ho gà thường nhảy mũi, ho nhẹ rồi nước mũi chảy ra nhiều. Một hai tuần sau, ho nhiều, dài hơn, và đến thành từng cơn ho sặc sụa. Vì ho nhiều không đủ thời giờ hít hơi vào, trẻ thường ráng hít mạnh sau cơn ho, không khí vào nhanh, qua đường hô hấp có nhiều chất nhấy tạo âm thanh rít như tiếng rù cổ của gà. Cơn ho dữ dội và lâu sẽ làm trẻ nôn ói, mệt và dần dần khó thở. Khi nôn ói nhiều quá trẻ dễ bị thiếu dinh dưỡng. Cơn ho có thể tự phát hay do cười, nói, ngáp. Sau 1 -2 tháng, cơn ho bớt dần và người bệnh hồi phục.
Ho gà có thể làm người bệnh suy yếu và dễ bị biến chứng như thiếu dinh dưỡng, viêm phổi, viêm não, tăng áp phổi, nhiễm trùng cơ hội.[3]
Vì kháng thể chống ho gà thiếu hiệu lực vĩnh viễn, nhiều người bị ho gà lần nữa khi lớn lên.[4] Vắc-xin chống ho gà cũng không có hiệu lực lâu dài. Phần lớn những người lớn bị ho gà đã từng có tiêm chủng phòng ngừa bệnh này khi còn bé. Tuy những người này có thể triệu chứng không nặng, họ vẫn lây truyền bệnh cho người thiếu miễn nhiễm chung quanh. Vi trùng ho gà có nhiều trong nước dãi từ mũi hay họng của người bệnh, tung ra ngoài ho hay nhảy mũi và theo không khí bay vào hệ hô hấp của người khác.[1] Vì trong thời gian đầu triệu chứng ho gà không khác gì những chứng bệnh cảm thông thường, người mang bệnh ho gà tiếp tục sinh hoạt trong công chúng và lây bệnh cho nhiều người khác.
Điều trị
[sửa | sửa mã nguồn]Bệnh nhân trưởng thành thường chỉ đến khám bệnh khi ho nhiều tuần lễ không khỏi. Ở trẻ em, cha mẹ lo ngại vì trẻ ho lâu, khó thở hoặc sụt ký. Một số trẻ ho liên tục đến độ mệt xỉu, thiếu dinh dưỡng, thiếu nước, cần chăm sóc trong bệnh viện.[cần dẫn nguồn]
Phương pháp chẩn đoán dựa vào phép cấy vi trùng, xét nghiệm PCR nước dãi hút lấy từ sau mũi họng. Vì vi trùng ho gà chỉ có trong cơ thể trong 3 tuần đầu tiên của bệnh, xét nghiệm cấy và PCR sau thời gian này không có ích trong chẩn đoán. Trong trường hợp người trưởng thành bị ho lâu ngày không khỏi, xét nghiệm máu có thể cho thông tin về kháng thể chống ho gà.
Vì lý do nêu trên, bệnh nhân ho gà thường bắt đầu dùng thuốc kháng sinh (thí dụ: erythromycin, azithromycin, co-trimoxazole) 3-4 tuần sau khi nhiễm bệnh. Vì sử dụng quá trễ, thuốc có thể làm giảm khả năng lây bệnh sang người khác nhưng có lẽ không thay đổi mấy thời gian bị bệnh. Những người ở gần người bị ho gà (thí dụ: sống chung gia đình, làm việc chung văn phòng v.v...) nếu kịp uống thuốc kháng sinh phòng ngừa trong một hai tuần khi mới nhiễm bệnh có thể tránh được các triệu chứng nặng của ho gà.
Phòng ngừa
[sửa | sửa mã nguồn]Tiêm chủng
[sửa | sửa mã nguồn]
Vắcxin ngừa bệnh ho gà gồm hai loại chính: vắcxin ho gà toàn bào (whole-cell pertussis, viết tắt wP) và vắcxin ho gà vô bào (acellular pertussis, viết tắt aP).
Vắcxin ho gà thường kết hợp chung với vắcxin ngừa độc tố uốn ván với độc tố bạch hầu tạo thành vắcxin bạch hầu - ho gà - uốn ván, trong đó lượng liều bằng nhau (ký hiệu là DTP) hoặc giảm nửa liều liều ho gà và bạch hầu trong khi liều uốn ván giữ nguyên (ký hiệu là Tdap). Vắcxin ngừa ho gà cũng nằm trong chương trình tiêm chủng mở rộng đang triển khai ở nước ta, trong đó vắcxin ho gà toàn bào kết hợp với ho gà, bạch hầu, uốn ván (ký hiệu DTwP) được tiêm khi trẻ được 02 tháng tuổi (liều thứ nhất), 03 tháng tuổi (liều thứ hai), 03 tháng tuổi (liều thứ ba) và 18 tháng tuổi (tiêm nhắc)[5]. Cũng trong chương trình này, DTwP có thể kết hợp cùng lúc với vắcxin ngừa viêm gan siêu vi B (HBV) và Haemophilus influenzae tuýp b (HiB) tạo thành vắcxin ComBE Five (trước năm 2018 là vắcxin Quinvaxem) tiêm cho trẻ khi vào tháng 02, tháng 03 và tháng 04. Đối với chương trình tiêm chủng dịch vụ (triển khai ở một số tổ chức tư nhân như hãng VNVC), vắcxin ngừa ho gà được sử dụng ở dạng kết hợp vắcxin 5-trong-1 được sử dụng là Pentaxim với thành phần bao gồm bạch hầu, ho gà vô bào (aP), uốn ván, Haemophilus influenzae tuýp b (HiB) và bại liệt (Poliovirus) hay vắcxin 6-trong-1 bao gồm 5 loại kháng nguyên trên kết hợp với ngừa viêm gan siêu vi (vắcxin Hexaxim hoặc vắcxin Infanrix hexa, cả hai loại này có tác dụng tương đương nhau) giúp giảm nguy cơ bị phản ứng sau tiêm so với vắcxin ComBE Five/ Quinvaxem. Tuy nhiên, do thành phần ho gà trong các loại vắcxin của chương trình dịch vụ ở dạng vô bào nên khả năng sinh miễn dịch đối với độc tố ho gà kém hơn ComBE Five/Quinvaxem nên cần phải tiêm nhắc lại nhiều mũi hơn. Trẻ em nên tiêm mũi bạch hầu - ho gà - uốn ván thứ năm khi được 4 - 8 tuổi để tăng hiệu quả bảo vệ[6].
Đối với trẻ trên 4 tuổi và người trưởng thành thì sẽ tiêm nhắc ho gà - bạch hầu - uốn ván (thường ở dạng giảm liều ho gà, bạch hầu; tức Tdap) mỗi 10 năm để duy trì hiệu quả miễn dịch. Hiện có hai loại vắcxin Tdap phổ biến là Adacel và Boostrix. Boostrix có liều kháng nguyên cao hơn vắcxin Adacel nên tạo đáp ứng mạnh hơn Adacel. Bên cạnh đó, Adacel chỉ được chỉ định cho trẻ trên 4 tuổi và người trưởng thành dưới 65 tuổi trong khi Boostrix có thể chỉ định ở cả người già từ 65 tuổi trở lên cũng như có thể chỉ định ở thai phụ ở ba tháng giữa hoặc ba tháng cuối của thai kỳ (không khuyến cáo dùng Adacel cho thai kỳ).
Hậu phơi nhiễm
[sửa | sửa mã nguồn]Đối với người phơi nhiễm với vi khuẩn ho gà mà chưa có miễn dịch có thể sử dụng kháng sinh dự phòng (prophylaxis) trong 14 ngày bằng erythromycin với liều 40-50/kg/ngày[7]. Sau khi kết thúc đợt điều trị dự phòng, người đó sẽ được khuyến cáo tiêm chủng ho gà với phác đồ thay đổi tùy theo lứa tuổi.
Tổng kết
[sửa | sửa mã nguồn]- Ho gà là bệnh truyền nhiễm gây nên bởi vi khuẩn Bordetella pertussis.
- Bệnh lây truyền qua đường hô hấp, với triệu chứng là ho dữ dội và kéo dài. Nếu không được kiểm soát tốt, bệnh có thể xuất hiện biến chứng hô hấp và thần kinh trung ương.
- Điều trị ngoài sử dụng kháng sinh (phổ biến nhất là erythromycin), điều trị triệu chứng cũng như đảm bảo chăm sóc đầy đủ.
- Bệnh có thể phòng ngừa hiệu quả bằng việc chủ động tiêm ngừa vắcxin, phụ huynh nên cho trẻ đến các cơ sở y tế để tiêm chủng miễn phí theo chương trình tiêm chủng mở rộng.
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Finger H, von Koenig CHW. Bordetella–Clinical Manifestations. (via NCBI Bookshelf) ISBN 0-ngày 91 tháng 1 năm 1172
- ^ Versteegh FGA, Schellekens JFP, Fleer A, Roord JJ Pertussis: a concise historical review including diagnosis, incidence, clinical manifestations and the role of treatment and vaccination in management.
- ^ Mattoo S, Cherry JD (2005). "Molecular pathogenesis, epidemiology, and clinical manifestations of respiratory infections due to Bordetella pertussis and other Bordetella subspecies". Clin Microbiol Rev. Quyển 18 số 2. tr. 326–82. PMID 15831828.
- ^ Hewlett EL, Edwards KM (2005). "Pertussis--not just for kids". New Eng J Med. Quyển 352 số 12. tr. 1215–1222.
- ^ Bộ Y tế (2024). Thông tư số 10/2024/TT-BYT "Ban hành danh mục bệnh truyền nhiễm, đối tượng và phạm vi phải sử dụng vắcxin, sinh phẩm y tế bắt buộc". URL: https://bientap.vbpl.vn//FileData/TW/Lists/vbpq/Attachments/169843/VanBanGoc_613510.pdf
- ^ https://vncdc.gov.vn/su-khac-nhau-giua-vac-xin-quinvaxem-va-vac-xin-pentaxim-nd14224.html
- ^ Lê Bửu Châu, Cao Ngọc Nga. Bệnh ho gà. Bộ môn Nhiễm - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Bệnh truyền nhiễm. Tái bản lần thứ 6. Nhà xuất bản Y học; 2025: 144 - 155.