Cao Tái sinh vào giờ Tý, ngày 16 tháng 2 (âm lịch) năm Sùng Đức thứ 2 (1637) trong gia tộc Ái Tân Giác La. Ông là con trai của Thanh Thái Tông Hoàng Thá i Cực và Thứ phi Nạp Lạt thị. Năm Thuận Trị thứ 9 (1652), ông được phong Phụ quốc công. Đến năm Khang Hi thứ 8 (1669), thì được tấn phong Trấn quốc công. Năm thứ 9 (1670), ngày 22 tháng 7, ông qua đời vì bệnh ở tuổi 34, được truy thụy "Khác Hậu" (慤厚).
"Trì Bắc ngẫu đàm" của Vương Sĩ Chân: "Tính đạm bạc, như khô thiền lão nạp, hay đọc sách, giỏi đánh đàn, khéo thi họa, tinh thông nhạc lý, vui vẻ cùng văn sĩ qua lại. Thường thấy ông phỏng theo Vân Lâm tiểu phúc, văn chương đạm viễn, thoát khỏi biên giới thông thường".[1]
Sau khi Cao Tắc nhập kỳ, ông được phân vào Chính Hoàng kỳ Đệ nhị tộc, cùng kỳ tịch với Diệp Bố Thư, là một trong số ít những Tông thất bị đãi vào Thượng Tam kỳ, nguyên nhân chính là do thân phận quá thấp, không thể vào Nhập bát phân.
Tĩnh Hằng (靖恆, 1661 - 1740), mẹ là Nhan Trát thị. Năm 1670 tập phong Bất nhập Bát phân Phụ quốc công. Năm 1697 thụ Nội đại thần. Năm 1722 thụ Lĩnh thị vệ Nội đại thần, sau bị cách thối (1724). Năm 1728 cách tước Phụ quốc công. Có mười một con trai.
Vân Thăng (雲升, 1664 - 1725), mẹ là Nhan Trát thị. Năm 1678 được phong Bất nhập Bát phân Phụ quốc công. Năm 1687 thụ Nội đại thần. Năm 1697 cách tước và toàn bộ chức vị. Kế thê là Nữu Hỗ Lộc thị, con gái của Át Tất Long. Có năm con trai.
Nguyên Trí (元智, 1667 - 1681), mẹ là Nhan Trát thị. Chết yểu.
Thành Phu (成孚, 1669 - 1724), mẹ là Nhan Trát thị. Năm 1683 được phong Bất nhập Bát phân Phụ quốc công. Năm 1687 thụ Nội đại thần. Năm 1721 cách tước và toàn bộ chức vị. Có năm con trai.