Hỗ Tắc

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hỗ Tắc
祜塞
Thân vương nhà Thanh
Thông tin chung
Sinh(1628-03-03)3 tháng 3, 1628
Mất22 tháng 3, 1646(1646-03-22) (18 tuổi)
Phối ngẫuxem văn bản
Hậu duệxem văn bản
Tên đầy đủ
Ái Tân Giác La Hỗ Tắc
(愛新覺羅 祜塞)
Thụy hiệu
Hòa Thạc Huệ Thuận Thân vương
(和碩惠順親王)
Hoàng tộcÁi Tân Giác La
Thân phụLễ Liệt Thân vương Đại Thiện
Thân mẫuTam kế Phúc tấn Nạp Lạt thị

Hỗ Tắc (tiếng Mãn: ᡥᡡᠰᡝ, Möllendorff: Hūse, Abkai: Hvse, chữ Hán: 祜塞, bính âm: Hùsè; 3 tháng 3 năm 162822 tháng 3 năm 1646), Ái Tân Giác La, là một Thân vương thời kỳ đầu nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.

Cuộc đời[sửa | sửa mã nguồn]

Hỗ Tắc sinh vào giờ Thân, ngày 28 tháng giêng (âm lịch) năm Thiên Thông thứ 2 (1628), trong gia tộc Ái Tân Giác La. Ông là con trai thứ tám của Lễ Liệt Thân vương Đại Thiện, và là cháu nội của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Mẹ ông là Tam kế Phúc tấn Nạp Lạt thị. Năm Thuận Trị thứ 2 (1645), ông được phong làm Trấn quốc công. Năm thứ 3 (1646), giờ Thìn ngày 6 tháng 2 (âm lịch), ông qua đời khi mới 19 tuổi. Con trai thứ hai là Tinh Tế thừa tập tước vị.

Năm thứ 10 (1653), vì trước đó con trai thứ ba của ông là Kiệt Thư được phong Quận vương mà ông cũng được triều đình truy phong làm Quận vương, thụy "Huệ Thuận". Năm thứ 16 (1659), anh trai của ông là Mãn Đạt Hải bị truy luận tội, tước thụy hiệu, hàng làm Bối lặc, tước vị Lễ Thân vương cũng chuyển từ con trai của Mãn Đạt Hải là Thường A Đại sang cho Kiệt Thư và đổi phong hiệu thành Khang Thân vương. Năm Khang Hi nguyên niên (1662), tháng 3, ông được truy phong làm Huệ Thuận Thân vương.

Tương quan[sửa | sửa mã nguồn]

Các anh em của Hỗ Tắc như Khắc Cần Quận vương Nhạc Thác, Dĩnh Nghị Thân vương Tát Cáp Lân đều có chiến công trong những năm trước và sau khi nhà Thanh nhập quan, chỉ có bản thân Hỗ Tắc vì nhỏ tuổi mà chưa từng tham gia chiến sự, nhưng tương truyền ông có trời sinh có sức mạnh hơn người, ít ai địch lại. Trong những năm Thuận Trị, sứ giả của Khách Nhĩ Khách đến Kinh thành, muốn so tài đấu vật với các đại thần thân cận của Hoàng đế, và không ai trong triều có thể đánh bại ông ta. Sau khi nghe tin, Hỗ Tắc đã đề xuất với cha mình là Đại Thiện, cải trang thành Thị vệ lẫn vào trong, cuối cùng đánh bại sứ giả Khách Nhĩ Khách. Thuận Trị Đế cực kì vui mừng, ban thưởng cho ông rất hậu hĩnh, lúc bấy giờ Hỗ Tắc mới qua tuổi nhược quán. Sau đó, ông nói với mọi người: "Thế giới thật cô đơn và rắc rối, không hạnh phúc như thiên đàng". Đại Thiện cảm thấy đây là điềm xấu, không qua một năm, Hỗ Tắc liền qua đời.[1]

Gia quyến[sửa | sửa mã nguồn]

Thê thiếp[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đích Phúc tấn: Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị (博爾濟吉特氏), con gái của Khoa Nhĩ Thấm Thai cát Tang A Nhĩ Tắc (桑阿尔塞)
  • Dắng thiếp: Tha Tháp Lạt thị (他塔喇氏), con gái của Hoài Đáp Khố (淮塔库).

Con trai[sửa | sửa mã nguồn]

  1. A Lâm (阿林, 1644 - 1659), mẹ là Tha Tháp Lạt thị. Có một con trai.
  2. Tinh Tế (精濟, 1644 - 1649), mẹ là Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị. Năm 1646 tập tước Trấn quốc công, sau thăng làm "Đa La Quận vương", qua đời được ban thụy "Hoài Mẫn" (懷愍).
  3. Kiệt Thư (杰書; 1646 - 1697), mẹ là Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị. Được phong làm "Hòa Thạc Khang Thân vương" tức Lễ Thân vương đời thứ 4. Sau khi qua đời được ban thụy "Lương" (良).

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ 《啸亭杂录·卷二》:国初诸王,披坚执锐,抚定辽、沈,先烈亲王诸子中如克勤郡王、颖毅王。诸王平定山左,各著有劳绩,惟先惠顺王以年幼未经从军,然天授神勇,众罕与匹。生有髭须数十茎,人争异之。顺治中,有喀尔喀使臣至,与近臣角抵,俱莫能撄。王闻之,请于烈王,伪为护卫入朝,杂于众中,使臣与斗,应手而仆。世祖大悦,赏赉无算,时年甫弱冠也。后尝告人曰:"此间殊寂寞恼人,未若诸天乐也。"烈王方讶为不祥,未逾年薨。

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]