Bước tới nội dung

Ngoa Lý Đóa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Hoàn Nhan Tông Phụ)
Ngoa Lý Đóa
Hữu phó nguyên soái
Tả phó nguyên soái
Thông tin chung
Sinh1096
Mất1135 (40 tuổi)
An tángCảnh Lăng.
Tên gọi
Tên húy: Hoàn Nhan Tông Nghiêu (完颜宗尧)
Tên Nữ Chân: Ngoa Lý Đóa (讹里朵)
Tên gốc: Hoàn Nhan Tông Phụ (完颜宗辅)
Thụy hiệu
Lập Đức Hiển Nhân Khải Thánh Nghiễm Vận Văn Vũ Giản Túc Hoàng Đế (立德显仁启圣广运文武简肃皇帝)
Miếu hiệu
Duệ Tông (睿宗)
Triều đạiNhà Kim
Thân phụKim Thái Tổ

Hoàn Nhan Tông Phụ (chữ Hán: 完颜宗辅, 10961135), tên Nữ ChânNgoa Lý Đóa, hoàng tử, tướng lĩnh nhà Kim. Ông là con trai thứ ba của Kim Thái Tổ A Cốt Đả, cha của Kim Thế Tông Hoàn Nhan Ung. Sau khi lên ngôi, Thế Tông đổi húy của cha mình là Tông Nghiêu (chữ Hán: 完颜宗尧), miếu hiệu là Duệ Tông.

Cuộc đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Tông Phụ mặt mũi khôi ngô, dáng vẻ trang nghiêm; tính rộng rãi, hay giúp dỡ, chuộng thành thật. Kim Thái Tổ chinh phạt 4 phương, các con trai đều tòng quân, ông thường ở bên cạnh tham mưu.

Năm Thiên Phụ thứ 6 (1122), cùng Ô Cổ Nãi đánh dẹp dân mới hàng An Phúc Ca nổi dậy ở Hoàng Long phủ.

Năm Thiên Hội thứ 5 (1127), nhận chức Hữu phó nguyên soái, đóng quân Yên Kinh. Tháng 11, từ Hà Gian đánh 2 châu Truy, Thanh của Tống. Năm sau, phá 20 vạn quân của tướng Tống là Mã Quát ở Nhạc An, sau đó lưu đại quân ở ven Hoàng Hà, đóng đồn làm ruộng rồi về. Khi có chiếu phạt Tống, xuất quân từ Hà Bắc, hàng phục Hoạt Châu, chiếm Khai Đức, Đại Danh, bình xong Hà Bắc.

Năm thứ 8 (1130), đưa quân đến Lạc thủy, phá 6 vạn kỵ, 12 vạn bộ của tướng Tống là Trương TuấnPhú Bình, hàng phục Diệu Châu, Phượng Tường phủ, hạ 2 châu Kính, Vị; đánh bại Kinh lược sứ Lưu Nghê ở Ngõa Đình, hàng phục Nguyên Châu. Tiến binh hàng phục 3 bảo Cam Tuyền, chiếm thành Bảo Xuyên; phá 2 vạn quân của Hi Hà lộ phó tổng quản nhà Tống, bắt được hơn nghìn con ngựa, nhổ 2 trại An Tây, Hi Châu đầu hàng. Chia quân đi chiêu dụ được các châu Củng, Thao, Hà, Nhạc, Tây Ninh, Lan, Khuếch, Tích Thạch; các thành, trại cùng trấn, bảo Định Viễn, Hòa Chánh, Cam Dục, Ninh Thao, An Lũng và hơn 40 doanh, bộ Phiên, Hán. Bình xong 5 lộ Thiểm Tây, phái Tát Li Hát chia 6000 quân trú phòng ở nơi xung yếu.

Cái chết

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi ban sư, cùng Tông Hàn ủng lập Hoàn Nhan Đản làm Am Ban Bột Cực Liệt. Năm thứ 12 (1134), làm Tả phó nguyên soái. Năm thứ 13 (1135), trên đường đến Quy Châu, hoăng, được 40 tuổi. Bồi táng Duệ Lăng[1], truy phong Lộ vương, thụy là Tương Mục.

Năm Hoàng Thống thứ 6 (1146) đời Kim Hi Tông, tiến Ký quốc vương. Năm Chánh Long thứ 2 (1157) đời Hải Lăng vương, truy tặng Thái sư, Thượng trụ quốc, cải phong Hứa vương. Năm Đại Định đầu tiên (1161), Thế Tông lên ngôi, truy thụy là Lập Đức Hiển Nhân Khải Thánh Quảng Vận Văn Vũ Giản Túc Hoàng Đế, miếu hiệu Duệ Tông. Năm thứ 2 (1162), cải táng ở núi Đại Phòng, hiệu là Cảnh Lăng.

Gia quyến

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Thân phụ: Kim Thái Tổ Hoàn Nhan A Cốt Đả
  • Thân mẫu: Thứ phi Bộc Tán thị (僕散氏), khi mất truy tặng Đức phi (德妃), sau cải truy Tuyên Hiến Hoàng hậu (宣獻皇后).
  • Thê thiếp:
  1. Chính phi Bồ Sát thị (蒲察氏), Hán danh Thọ Xương (壽昌), có mẹ là em gái Kim Thái Tổ. Được phong Lộ Thiên phi (潞遷妃), sau thăng Kì quốc Vương phi (冀國王妃) rồi Hứa vương phi (許王妃). Thế Tông đăng cơ, truy tặng Khâm Từ Hoàng hậu (欽慈皇后).
  2. Thứ phi Lý thị (李氏, ? - 1161), xuất thân quý tộc Bột Hải, con gái Quế Châu Quan sát sứ Sồ Ngoa Chỉ (雏讹只). Ngoa Lý Đóa qua đời, xuất gia làm ni cô, được ban danh Thông Tuệ Viên Minh Đại sư (通慧圆明大师). Thế Tông đăng cơ, truy tặng Trinh Ý Hoàng hậu (贞懿皇后).
  3. Thứ phi Cao Xảo Xu (高巧姝), xuất thân quý tộc nhà Tống.
  • Con cái:
  1. Kim Thế Tông Hoàn Nhan Tông Vọng
  2. Tề vương Hoàn Nhan Ngô Lý Bổ (完颜吾里补), có một con gái được phong Đường quốc Công chúa (唐国公主) gả cho Đồ Đan Tư Trung (徒单思忠).
  3. Trưởng nữ, phong Sở quốc Trưởng công chúa (楚国长公主), gả cho Đường Quát Đức Ôn (唐括德温).
  4. Nhị nữ, phong Kí quốc Trưởng công chúa (冀国长公主), gả cho Hưng Bình quân Tiết độ sứ Ô Cổ Luận Niêm Một Hạt (乌古论粘没曷), có một con trai là Ô Cổ Luận Công Thuyết (乌古论公说).

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Lăng mộ của Kim Thái Tổ