Nhà thờ chính tòa Wells
Nhà thờ chính tòa Wells | |
---|---|
Nhà thờ chính tòa Thánh Andrew | |
![]() Mặt tây nhà thờ chính tòa Wells | |
51°12′37″B 2°38′37″T / 51,2104°B 2,6437°T | |
Địa điểm | Wells, Somerset |
Quốc gia | England |
Hệ phái | Giáo hội Anh |
Trang chính | wellscathedral |
Kiến trúc | |
Di sản chỉ định | Tòa nhà được liệt kê Loại I |
Chỉ định | 12 tháng 11 năm 1953[1] |
Phong cách | Gothic (Early English, Decorated, và Perpendicular) |
Năm xây dựng | 1176 – k. 1490[1],[2] |
Thông số | |
Chiều dài | 126,5 m (415 ft)[3] |
Rộng | 20 m (66 ft)[3] |
Chiều rộng (dài) cánh ngang | 47 m (154 ft)[3] |
Chiều cao khoảng giữa | 20,5 m (67 ft)[3] |
Số lượng tháp | 3 |
Chiều cao tháp | 55 m (180 ft) (giao nhau)[3] |
Chuông | 10 |
Quản lý | |
Giáo phận | Bath và Wells (since c. 909) |
Giáo tỉnh | Canterbury |
Giáo sĩ | |
Giám mục | Peter Hancock |
Niên trưởng | John Davies |
Precentor | Nicholas Jepson-Biddle[4] |
Chancellor | Andrew Featherstone[5] |
Kinh sĩ treasurer | Graham Dodds (từ 2010)[6] |
Tổng trợ tế | Nicola Sullivan, Phó giáo chủ của Wells (từ 2007)[7] |
Laity | |
Organist | Matthew Owens[8] |

Nhà thờ chính tòa Wells (tiếng Anh: Wells Cathedral) là nhà thờ Anh giáo ở Wells, Somerset, Anh, được cung hiến theo Thánh Andrew Tông đồ. Đây cũng là trụ sở của Giám mục của Bath và Wells, được coi là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Bath and Wells. Đóng vai trò là một nhà thờ Công giáo La Mã từ khoảng năm 1175 nhằm thay thế một nhà thờ trước đó từ năm 705, nó đã trở thành một nhà thờ Anh giáo khi Vua Henry VIII tách khỏi Rome. Nhà thờ có kích thước vừa phải như một nhà thờ Anh thông thường. Những đặc điểm nổi bật là mặt tiền phía tây rộng và tháp trung tâm lớn.[9] Nhà thờ được gọi là "chắn chắn là một trong những nơi đẹp nhất"[10] và "thơ mộng" nhất trong các thánh đường nước Anh.[11]
Kiến trúc Gothic của nhà thờ hầu hết lấy cảm hứng từ phong cách Anh thời kỳ đầu vào cuối thế kỷ 12 đến đầu thế kỷ 13, dù thiếu đi kiến trúc Romanesque như các thánh đường khác. Nhà thờ bắt đầu xây dựng vào khoảng năm 1175 ở cuối phía đông với kiến trúc choir. Nhà sử học John Harvey coi đây là cấu trúc Gothic thực sự đầu tiên của châu Âu, phá vỡ những ràng buộc cuối cùng của phong cách La Mã.[12] Công trình mái vòm bằng đá và rãnh cong có các đường gờ rõ rệt cũng như chạm khắc các đầu cột theo phong cách "lá cứng".[13] Mặt tiền kiểu Anh đi đầu với 300 hình điêu khắc[11] và được coi là "chiến thắng tối cao của nghệ thuật tạo hình kết hợp ở Anh".[14] Phần cuối phía đông vẫn giữ được nhiều kính màu cổ kính.[11] Không giống như nhiều thánh đường tiên phong, Wells có nhiều tòa nhà còn sót lại liên kết với các giáo sĩ, bao gồm Điện Giám mục và khu dân cư Vicars' Close thế kỷ 15.[9] Đây là tòa nhà được xếp hạng I.[1][15]
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Những năm đầu[sửa | sửa mã nguồn]
Phần còn lại của nhà thờ ban đầu vốn là của một lăng mộ kiểu La Mã, được xác nhận trong các cuộc khai quật vào năm 1980.[15][16] Một tu viện được xây dựng ở Wells vào năm 705 do Aldhelm, giám mục đầu tiên của Giáo khu Sherborne mới thành lập dưới triều đại của Vua Ine xứ Wessex.[17][18] Nó được dành riêng cho Thánh Andrew và nằm ở vị trí tu viện của nhà thờ, nơi có thể nhìn thấy một số hài cốt được khai quật. Phòng rửa tội ở phía nam cánh ngang nhà thờ cũng là phần lâu đời nhất của tòa nhà hiện nay.[19][20] Năm 766 Cynewulf, Vua của Wessex, đã ký một hiến chương trao cho nhà thờ mười một Haiddơ đất.[a][22][23] Năm 909, trụ sở của giáo phận được chuyển từ Sherborne đến Wells.[15]
Giám mục đầu tiên của Wells là Athelm (909), sau đó lên ngôi Vua Æthelstan. Athelm và cháu trai Dunstan đều trở thành Tổng giám mục Canterbury.[17] Trong thời kỳ này, một dàn hợp xướng gồm các cậu bé đã được thành lập để hát phụng vụ. Trường Wells Cathedral được thành lập để giáo dục những cậu bé hợp xướng này, tính từ thời điểm đó.[24] Tuy nhiên, vẫn còn có một số tranh cãi về vấn đề này. Sau Cuộc xâm lược Anh của người Norman, John de Villula đã chuyển trụ sở giáo phận từ Wells đến Bath vào năm 1090.[25] Nhà thờ ở Wells, không còn là thánh đường nữa, có một trường đại học gồm giáo sĩ thế tục.[25]
Trụ sở giáo phận[sửa | sửa mã nguồn]
Nhà thờ được cho là đã được hình thành và bắt đầu vào khoảng năm 1175 bởi Reginald Fitz Jocelin, người đã qua đời vào năm 1191.[26][27][28] Mặc dù rõ ràng về quy mô ngay từ đầu, nhà thờ đã được lên kế hoạch trở thành nhà thờ chính tòa của giáo phận,[25] ghế của giám mục được di chuyển giữa Wells và các tu viện Glastonbury và Bath, trước khi định cư tại Wells. Năm 1197, người kế vị của Reginald là Savaric FitzGeldewin, với sự chấp thuận của Giáo hoàng Celestine III, chính thức chuyển chỗ đến Tu viện Glastonbury. Danh hiệu Giám mục của Bath và Glastonbury đã được sử dụng cho đến khi chính sách của Glastonbury bị hủy bỏ vào năm 1219.[29]
1660–1800[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1661, sau khi Charles II phục hồi ngai vàng, Robert Creighton, tuyên úy lưu vong của nhà vua, được bổ nhiệm làm trưởng giám mục trong hai năm trước khi ông qua đời vào năm 1672.[30] Bục giảng bằng đồng thau của ông nhận trong lễ tạ ơn nằm trong nhà thờ lớn. Ông hiến tặng cửa sổ lớn phía tây của gian giữa với giá 140 bảng Anh. Sau khi Creighton nhận chức giám mục, chức vụ trưởng thuộc về Ralph Bathurst, người từng là tuyên úy cho nhà vua, chủ tịch của Trinity College, Oxford và là thành viên của Hội Hoàng gia.[31] Trong nhiệm kỳ dài của Bathurst, nhà thờ đã được trùng tu, nhưng trong Cuộc nổi loạn Monmouth năm 1685, binh lính Thanh giáo đã phá hủy phần phía tây, lấy chì từ mái nhà để làm đạn, phá vỡ cửa sổ, đập vỡ đàn organ và đồ đạc, ngoài ra còn lấy gian giữa làm thành chuồng ngựa.[32]
Thời đại Victoria đến nay[sửa | sửa mã nguồn]
Giữa thế kỷ 19, nhà thờ quyết định cần thiết phải có một chương trình phục hồi tổng thể. Dưới thời Linh mục Goodenough, các di tích cổ được chuyển đến tu viện, lớp sơn thời trung cổ còn sót lại đã bị dỡ bỏ và tẩy trắng trong một chiến dịch được gọi là "vụ cạo lớn".[33] Anthony Salvin phụ trách việc khôi phục lại dàn hợp xướng. Các phòng trưng bày bằng gỗ được lắp đặt vào thế kỷ 16 đã bị dỡ bỏ, cùng vối các quầy hàng có mái che bằng đá và đặt lùi ra xa hơn. Bức màn pulpitum bằng đá thời trung cổ được mở rộng ở phía trung tâm nhằm hỗ trợ bộ phận mới.[34]
Tháng 1 năm 2014, như một phần của liên hoan phim Bath, nhà thờ đã tổ chức một buổi chiếu đặc biệt bộ phim The Last Temptation of Christ của Martin Scorsese. Điều này đã gây ra một số tranh cãi, nhưng nhà thờ vẫn kiên quyết cho phép chiếu phim.[35][36]
Năm 2021, một tác phẩm điêu khắc đương đại của Anthony Gormley đã ra mắt trên một cột tạm bên ngoài nhà thờ.[37]
Kiến trúc[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày tháng, phong cách và kiến trúc sư[sửa | sửa mã nguồn]
- Mặt phía Tây
- Gian giữa của giáo đường
- Tháp trung tâm
- Dàn hợp xướng
- Dàn hợp xướng cổ điển
- Nhà Nguyện Đức Bà
- Lối đi
- Hành lang
- Hành lang hướng Đông
- Mái vòm phía Bắc
- Nhà nguyện chung
- Tu viện
Độ cao[sửa | sửa mã nguồn]
Về phần, nhà thờ có sự sắp xếp thông thường của một nhà thờ lớn: gian giữa ở giữa với lối đi ở mỗi bên, ngăn cách bởi hai mái vòm. Phần cao có ba đoạn, vòm, bao lơn và cửa sổ dọc tường.[38] Gian giữa có chiều cao 67 foot (20 m), rất thấp so với các nhà thờ lớn kiểu Gothic của Pháp.[39] Nó có điểm nhấn theo chiều ngang rõ rệt, do phần bao lơn có hình dạng độc đáo, một loạt các lỗ hẹp giống hệt nhau, không theo định nghĩa thông thường về các gian phòng. Bao lơn được ngăn cách với vòm bằng đoạn trang trí viền ngang duy nhất chạy thẳng suốt chiều dài của gian giữa. Không có đoạn trang trí dọc nối ba phần, vì các trục đã hỗ trợ phần vòm phía trên bao lơn.[38]
Mặt phía tây[sửa | sửa mã nguồn]
Mặt phía tây cao 100 foot (30 m) và rộng 147 foot (45 m),[40] được xây dựng bằng đá Inferior Oolite thuộc thời kỳ Trung Jura, xuất phát từ Mỏ đá Doulting Stone, khoảng 8 dặm (13 km) về phía đông.[41] Theo nhà sử học kiến trúc Alec Clifton -Taylor, đó là "một trong những thắng cảnh tuyệt vời của nước Anh".[42]
Sản phẩm hoàn chỉnh nhận nhiều chỉ trích vì thiếu các đỉnh nhọn và có khả năng các tòa tháp được dự tính là sẽ gánh các ngọn tháp nhưng chưa bao giờ xây dựng.[38] Mặc dù thiếu các ngọn tháp hoặc đỉnh, nhà sử học kiến trúc Banister Fletcher mô tả "mặt ngoài của nhà thờ là sự phát triển đỉnh nhất của phong cách Gothic Anh."[43]
Biểu tượng của mặt phía tây[sửa | sửa mã nguồn]
Các hốc ở khu vực thấp nhất của đầu hồi chứa chín thiên thần, trong đó Cockerell xác định được Michael, Gabriel, Raphael và Uriel.[44] Trong khu vực tiếp theo là các tông đồ có vị thế cao hơn, chẳng hạn như John, Andrew và Bartholomew, có thể được nhận dạng rõ ràng bằng các thuộc tính mà họ mang.[45] Các hốc trên cùng của đầu hồi có hình Christ the Judge (Đấng Phán Xét) ở trung tâm, với Virgin Mary (Đức Trinh Nữ Maria) ở bên phải và thánh John the Baptist (Gioan Tẩy giả) ở bên trái. Tất cả các tượng đều bị phá hủy.[45] Một bức tượng Chúa Giê-su mới được tạc cho hốc trung tâm, nhưng hai hốc bên hiện có các tiểu thiên thần. Chúa Kitô và Đức Trinh Nữ Maria cũng được thể hiện bằng những nhân vật không đầu trong Lễ đăng quang của Đức Trinh Nữ trong một hốc phía trên cổng trung tâm. Hình tượng Đức mẹ đồng trinh và Chúa Hài đồng bị hư hại nằm ở ô vuông trong phần mắt cửa.[46]
Tu viện[sửa | sửa mã nguồn]
Các hành lang được xây dựng vào cuối thế kỷ 13, phần lớn được xây dựng lại từ năm 1430 đến năm 1508[25][47] có các lỗ mở rộng được chia thành các thanh song và đố cửa trên, hoa văn theo phong cách Gothic vuông góc. Hầm có các gân vòm tạo thành các hình bát giác ở trung tâm của mỗi ngăn, các khớp của mỗi sườn có trang trí các phần nổi.[48] Dãy phía đông có hai tầng, trong đó tầng trên là thư viện được xây dựng vào thế kỷ 15.[25]
Bởi vì Nhà thờ Wells có tính thế tục hơn là tu viện, nên các tu viện không phải là một nhu cầu thực tế. Chúng đã bị loại bỏ khỏi một số thánh đường thế tục khác nhưng được xây dựng ở đây và tại Chichester. Những lời giải thích cho việc xây dựng của họ tại hai thánh đường thế tục này đến từ các nghi lễ và tính thẩm mỹ.[49] Cũng như tại Chichester, không có hành lang nào dẫn đến phần phía bắc. Trong các tu viện thì dãy phía bắc nhận nhiều ánh sáng mặt trời vào mùa đông nhất nên thường được sử dụng làm phòng viết lách.[50]
Nội thất[sửa | sửa mã nguồn]
Dàn hợp xướng, xuyên gian và gian giữa[sửa | sửa mã nguồn]
Đặc điểm cụ thể của nội thất thời kỳ đầu ở Anh này phụ thuộc vào tỷ lệ của các vòm hình mũi mác đơn giản. Nó cũng phụ thuộc vào sự trau chuốt của các chi tiết kiến trúc, đặc biệt là các đường gờ.
Nhà nguyện Đức Bà và dàn đồng ca[sửa | sửa mã nguồn]
Nhà nguyện[sửa | sửa mã nguồn]
![]() |
Nhà nguyện bắt đầu xây dựng vào cuối thế kỷ 13 và qua hai giai đoạn, hoàn thành vào khoảng năm 1310. Đây là một cấu trúc hai tầng với gian chính được nâng lên phía trên phần hầm mộ. Nó được dẫn vào từ một cầu thang chia đôi và các ngã rẽ, một nhánh dẫn qua tầng trên của Chain Gate đến Vicars' Close. Nội thất Geometric Decorated được Alec Clifton-Taylor mô tả là "đẹp nhất về mặt kiến trúc ở Anh".[54] Nó có hình bát giác, với các vòm có gân được hỗ trợ bằng một cột trung tâm. Bao quanh cột là các trục bằng Đá cẩm thạch Purbeck, vươn lên thành một khu trng tâm hình lá, gợn sóng liên tục với hình ảnh lá sồi và quả sồi cách điệu, hoàn toàn khác biệt về đặc điểm so với phong cách tán lá cứng của Anh thời kỳ đầu. Phía trên phần gờ có 32 đường gân chắc chắn, tạo hiệu ứng thường được ví như "một cây cọ vĩ đại".[54] Các cửa sổ lớn với hoa văn trang trí hình học được trang trí thể hiện độ căng và đường xoáy chữ S trong điều kiện ánh sáng yếu hơn, đặc trưng của cách trang trí hoa văn chảy. Những ngọn đèn bằng gỗ trắc vẫn chứa thủy tinh cổ.[54] Bên dưới cửa sổ là 51 gian, mái che của các gian đó trông rất sinh động nhờ vào các hình chạm khắc nhẹ nhàng .[54]
Chuông[sửa | sửa mã nguồn]
Những quả chuông ở Nhà thờ Wells là chiếc chuông nặng nhất trong mười quả chuông trên thế giới,[55] chuông tenor (thứ 10 và lớn nhất), được gọi là Harewell, nặng 56,25 tạ Anh (2.858 kg).[56] Chúng được treo theo hình vòng tròn để có thể đổ chuông xoay vòng theo kiểu Anh. Những quả chuông này hiện treo ở tháp phía tây nam, mặc dù một số quả chuông ban đầu treo ở tháp trung tâm.[57]
Số | Tên | Ngày | Người đúc | Khối lượng | ||
---|---|---|---|---|---|---|
Tấn (Anh) | lb | kg | ||||
1st | 1891 | Mears & Stainbank | 7 tạ dài 3 qr 12 lb | 880 | 399 | |
2nd | 1891 | Mears & Stainbank | 9 tạ dài 0 qr 2 lb | 1.010 | 458 | |
3rd | 1757 | Abel Rudhall | 10 tạ dài 0 qr 0 lb | 1.120 | 508 | |
4th | 1757 | Abel Rudhall | 10 tạ dài 3 qr 0 lb | 1.204 | 546 | |
5th | 1757 | Abel Rudhall | 12 tạ dài 2 qr 0 lb | 1.400 | 635 | |
6th | 1964 | Mears & Stainbank | 15 tạ dài 1 qr 14 lb | 1.722 | 781 | |
7th | 1757 | Abel Rudhall | 20 tạ dài 0 qr 0 lb | 2.240 | 1.016 | |
8th | 1757 | Abel Rudhall | 23 tạ dài 0 qr 0 lb | 2.576 | 1.168 | |
9th | 1877 | John Taylor & Co | 32 tạ dài 0 qr 0 lb | 3.584 | 1.626 | |
10th | Harewell | 1877 | John Taylor & Co | 56 tạ dài 1 qr 14 lb[58] | 6.314 | 2.864 |
Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]
-
Nhìn từ phía bắc.
-
Vòm
-
Đồng hồ thiên văn
-
Nhìn từ vườn.
-
Nhà thờ Wells.
-
Cận cảnh mặt tiền.
-
Nội thất nhà thờ Wells.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a b c Bản mẫu:National Heritage List for England
- ^ “Wells Cathedral – Wells, Somerset”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2023.
- ^ a b c d e “Dates and Dimensions” (Word). Wells Cathedral. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2013.
- ^ “The Precentor”. Wells Cathedral. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2014.
- ^ “The Chancellor”. Wells Cathedral. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2013.
- ^ “Graham Dodds”. Sarum College. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2013.
- ^ “Nicola Sullivan”. Wells Cathedral. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2013.
- ^ “Matthew Owens”. Wells Cathedral. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2013.
- ^ a b c Swaan 1984, tr. 188–196.
- ^ Oggins, Robin S. (1996). Cathedrals (bằng tiếng Anh). Sterling Publishing Company, Inc. ISBN 978-1-56799-346-2.
- ^ a b c Clifton-Taylor 1967, tr. 274.
- ^ Harvey 1987, tr. 19.
- ^ Clifton-Taylor 1967, tr. 77.
- ^ a b Harvey 1961, tr. 63.
- ^ a b c Bản mẫu:PastScape
- ^ Adkins 1992, tr. 118–119.
- ^ a b “The History and Architecture of Wells Cathedral in Somerset, Part 1”. Britannia. Bản gốc lưu trữ 4 tháng Bảy năm 2013. Truy cập 11 tháng Bảy năm 2013.
- ^ Malden 1947, tr. 27.
- ^ Pepin 2004, tr. 141.
- ^ “Chronological History”. Wells Cathedral. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2014.
- ^ “Glossary”. Domesday Book Online. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2014.
- ^ Lapidge, Michael; Blair, John; Keynes, Simon; Scragg, Donald (2 tháng 10 năm 2013). “Hide”. The Wiley Blackwell Encyclopedia of Anglo-Saxon England. John Wiley & Sons. tr. 243–44. ISBN 978-1-118-31609-2. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Wells Cathedral”. Somerset Historic Environment Record. Somerset County Council. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2011.
- ^ “ETHOS AND HISTORY”. Wells Cathedral School. Truy cập 2 tháng 1 năm 2023.
- ^ a b c d e Tatton-Brown & Crook 2002, tr. 74–76.
- ^ Harvey 1987, tr. 57.
- ^ Powicke 1961, tr. 251.
- ^ Matthews 2005, tr. 13.
- ^ Brooke 1976, tr. 184–185.
- ^ Lehmberg 1996, tr. 55.
- ^ Hopkins 2005, tr. 161.
- ^ “The Monmouth rebellion and the bloody assize”. Somerset County Council. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Victorian Restorations”. Wells Cathedral. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2011.
- ^ Colchester 1987, tr. 126–7.
- ^ Michael Trimmer, "Wells Cathedral defends decision to screen 'The Last Temptation of Christ'", Christian Today, 10 January 2014.
- ^ "Cathedral Supports Showing of Last Temptation of Christ", Wells Journal, 16 January 2014 – via HighBeam Research (cần đăng ký mua).
- ^ “Anthony Gormley art unveiled outside Wells Cathedral”. BBC News. 26 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2021.
- ^ a b c Pevsner 1958, tr. 278–310.
- ^ Clifton-Taylor 1967, tr. 74–79.
- ^ Colchester 1987, tr. 183.
- ^ “Quarry History”. Doulting Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2010.
- ^ a b Clifton-Taylor 1967, tr. 78.
- ^ a b Fletcher 1961, tr. 421.
- ^ Cockerell 1851, tr. 32.
- ^ a b Cockerell 1851, tr. 33.
- ^ Cockerell 1851, tr. 29–30.
- ^ Harvey 1987, tr. 163.
- ^ Clifton-Taylor 1967, tr. 226.
- ^ Clifton-Taylor 1967, tr. 136.
- ^ Crossley 1962, tr. 67–68.
- ^ Clifton-Taylor 1967, tr. 158–164.
- ^ Swaan 1984, tr. 193.
- ^ “Wells Cathedral”. Smarthistory. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2017.
- ^ a b c d Clifton-Taylor 1967, tr. 156–158.
- ^ “Volunteer”. Wells Cathedral. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2011.
- ^ Colchester 1987, tr. 21.
- ^ Colchester 1987, tr. 52.
- ^ “Great bells of GB”. The Keltek Trust. Bản gốc (Excel) lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2014.
Thư mục chung[sửa | sửa mã nguồn]
- Adkins, Lesley; Adkins, Roy (1992). A Field Guide to Somerset Archaeology. Dovecote Press. ISBN 978-0-946159-94-9.
- Bedford, Ronald (2007). Early Modern English Lives: Autobiography and Self-representation 1500–1660. Ashgate. ISBN 978-0-7546-5295-3.
- Brooke, C. N. L. (1976). Church and Government in the Middle Ages. Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-21172-7.
- Cave, Charles J. P. (1948). Roof Bosses in Medieval Churches: An Aspect of Gothic Sculpture. Cambridge University Press. OCLC 716449181.
- Clarke, Alfred Alexander (1896). Monograph on the cathedral church of Wells. Wells: Arthur G. Young; London: W. H. Smith & Sons. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2016.
- Clifton-Taylor, Alec (1967). The Cathedrals of England. Thames & Hudson. ISBN 978-0-500-18070-9.
- Cockerell, Charles Robert (1851). Iconography of the West Front of Wells Cathedral. J. H. Parker.
- Colchester, L. S. (1987). Wells Cathedral. Unwin Hyman. ISBN 978-0-04-440015-8.
- Cox, J. Charles (2008). English Church Fittings, Furniture and Accessories. Jeremy Mills. ISBN 978-1-905217-93-9.
- Crossley, Frederick Herbert (1962). The English Abbey. Batsford. OCLC 2038195.
- De Blasi, G. (2–4 July 2008). D'Ayala, Dina; Fodde, Enrico (biên tập). Wells Cathedral: The crossing and central tower. Structural Analysis of Historic Construction: Preserving Safety and Significance, Proceedings of the VI International Conference on Structural Analysis of Historic Construction, SAHC08. 1. Bath: CRC Press. ISBN 978-1-4398-2822-9.Quản lý CS1: định dạng ngày tháng (liên kết)
- Dunning, Robert (2001). Somerset Monasteries. Tempus. ISBN 978-0-7524-1941-1.
- Fletcher, Banister (1961). A History of Architecture on the Comparative Method (ấn bản 17). University of London: Athlone Press. OCLC 490562168.
- Fryde, E. B. (1986). Handbook of British Chronology. Royal Historical Society. ISBN 978-0-86193-106-4.
- Hatton, Alf (1999). Cultural Resource Management in Contemporary Society: Perspectives on Managing and Presenting the Past. Routledge. ISBN 978-0-415-11785-2.
- Harvey, John (1961). English Cathedrals. Batsford. OCLC 2437034.
- Harvey, John (1987). English Mediaeval Architects. Sutton Publishing Ltd. ISBN 978-0-86299-452-5.
- Hay, Denys (1952). Polydore Vergil: Renaissance Historian and Man of Letters. Clarendon Press. OCLC 799050.
- Hopkins, Clare (2005). Trinity: 450 Years of an Oxford College Community. Oxford University Press. ISBN 978-0-19-951896-8.
- Leete-Hodge, Lornie (1985). Curiosities of Somerset. Bossiney Books. ISBN 978-0-906456-99-6.
- Lehmberg, Stanford E. (1996). Cathedrals Under Siege: Cathedrals in English Society, 1600–1700. Penn State University Press. ISBN 978-0-271-01494-4.
- Malden, Richard H. (1947). The Story of Wells Cathedral. Raphael Tuck & Sons. OCLC 3138221.
- Matthews, Melvyn (2005). “The Meaning of Wells Cathedral”. Trong Dunning, Robert (biên tập). Wells Cathedral. Scala Publishers Ltd. ISBN 978-1-85759-370-9.
- Pepin, David (2004). Discovering Cathedrals. Shire Publications. ISBN 978-0-7478-0597-7.[liên kết hỏng]
- Pevsner, Nikolaus (1958). North Somerset and Bristol. Penguin. OCLC 868291293.
- Powicke, Maurice (1961). Handbook of British Chronology. Royal Historical Society. ISBN 978-0-901050-17-5.
- Reid, R. D. (1963). Wells Cathedral. Friends of Wells Cathedral. ISBN 978-0-902321-11-3.
- Remnant, George L.; Anderson, Mary Désirée (1969). A Catalogue of Misericords in Great Britain. Clarendon Press. ISBN 978-0-19-817164-5.
- Robinson, William J. (1916). West Country Churches. 4. Bristol Times and Mirror. OCLC 7393657.
- Smith, John Colin Dinsdale (1975). Picture Book of Misericords of Wells Cathedral. Friends of Wells Cathedral. ISBN 978-0-902321-15-1.
- Swaan, Wim (1984). The Gothic Cathedral. Omega. ISBN 978-0-907853-48-0.
- Tatton-Brown, Tim; Crook, John (2002). The English Cathedral. New Holland Publishers. ISBN 978-1-84330-120-2.
- Wade, G. W.; Wade, J. H. (1926). Somerset. Methuen & Co. OCLC 500472869.
- Warren, Derrick (2005). Curious Somerset. Sutton Publishing. ISBN 978-0-7509-4057-3.
Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]
- Ayers, Tim (2004). The Medieval Stained Glass of Wells Cathedral. Oxford University Press. ISBN 978-0-19-726263-4.
- Colchester, L. S.; Quilter, David Tudway; Quilter, Alan (1985). A History of Wells Cathedral School. Wells Cathedral School. OCLC 70336406.
- Malone, Von Carolyn Marino (2004). Façade as Spectacle: Ritual and Ideology at Wells Cathedral. Brill Publishers. ISBN 978-90-04-13840-7.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nhà thờ chính tòa Wells. |
Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref>
với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="lower-alpha"/>
tương ứng, hoặc thẻ đóng </ref>
bị thiếu
- Nhà thờ chính tòa Anh giáo tại Anh
- Nhà thờ Wells
- Nhà thờ hoàn thành năm 1490
- Tòa nhà của Anthony Salvin
- Nhà thờ chính tòa Anglo-Saxon
- Nhà thờ Công giáo La Mã trước Cải cách
- Nhà thờ Giáo hội Anh ở Quận Mendip
- Giáo phận Bath and Wells
- Kiến trúc Gothic kiểu Anh ở Somerset
- Địa điểm du lịch ở Somerset
- Tòa nhà và công trình ở Wells, Somerset