Ninh Khác phi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thanh Thế Tổ Ninh Khác phi
清世祖寧愨妃
Thuận Trị Đế phi
Thông tin chung
Mất1694
Tử Cấm Thành, Bắc Kinh
An tángHiếu Đông lăng (孝東陵), thuộc Thanh Đông lăng
Phu quânThanh Thế Tổ
Thuận Trị Hoàng đế
Hậu duệPhúc Toàn
Tôn hiệu
Ninh Khác phi (寧愨妃)
Tước hiệuThứ Phi (次妃)
Hoàng khảo Ninh Khác phi (皇考寧愨妃)
Thân phụKhách Tế Hải

Ninh Khác phi (chữ Hán: 寧愨妃; ? - 1694), Đổng Ngạc thị, là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Hoàng đế.

Thân thế[sửa | sửa mã nguồn]

Ninh Khác phi xuất thân từ dòng họ Đổng Ngạc thị của Nỗ Khải Ái Tháp (努愷爱塔), thế cư ở thành quốc Đổng Ngạc (nay là huyện Hoàn Nhân tỉnh Liêu Ninh), thuộc kỳ tịch là Mãn Châu Chính Hồng kỳ. Tằng tổ phụ Hà Hòa Lễ, một trong Khai quốc Ngũ đại thần triều Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích, cũng là người lấy con gái cả của ông là Cố Luân Đoan Trang Công chúa. Tổ phụ Phó Đô thống Đa Tể Lý (多濟理), thân phụ Trưởng sử Khách Tế Hải (喀济海) đều làm quan trong triều.

Căn cứ Đổng Ngạc thị tộc sử liệu tập (董鄂氏族史料集), Đổng Ngạc thị cùng Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậuTrinh phi đều là cùng tộc, đều là hậu duệ chi lớn của Nỗ Khải Ái Tháp. Tuy nhiên gia tộc của Đổng Ngạc thị hiển quý, là ["Tước để thế gia"; 爵邸世家]. Bên cạnh đó gia tộc này còn nhiều lần liên hôn với Hoàng thất, ngoại trừ ông cố Hà Hòa Lễ lấy Công chúa, chi gần Đổng Ngạc thị còn có tứ thúc là Tam đẳng Dũng Cần Đoan Khác công Hòa Thạc Đồ (和碩圖) đã lấy con gái trưởng của Lễ Liệt Thân vương Đại Thiện, ngoài ra ngũ thúc Nhị đẳng bá Đỗ Lôi (杜雷) lấy con gái thứ ba của Lễ Liệt Thân vương. Từ đây có thể thấy rõ gia thế của Đổng Ngạc thị không tầm thường.

Đại Thanh tần phi[sửa | sửa mã nguồn]

Cũng như nhiều phi tần khác của Thuận Trị Đế, việc bà nhập cung khi nào cũng không rõ ràng, và khi bà nhập cung được phong vị trí Thứ phi, do trong hậu cung vẫn chưa tiến hành đại sách phong. Năm Thuận Trị thứ 10 (1653), ngày 17 tháng 10 (âm lịch), Đổng Ngạc thị sinh hạ Hoàng nhị tử, tức Dụ Hiến Thân vương Phúc Toàn. Khi Thuận Trị Đế qua đời, Trinh phi bị buộc tuẫn tang, Thứ phi Đổng Ngạc thị phỏng chừng là Hoàng nhị tử sinh mẫu, hơn nữa gia thế hiển hách nên tránh được tai họa.

Năm Khang Hi thứ 12 (1673), ngày 4 tháng 12 (âm lịch), Khang Hi Đế tấn phong cho cả bốn vị Thứ phi chưa định phong của Thuận Trị Đế. Thứ phi Đổng Ngạc thị đứng hàng cuối cùng, thụ phong Hoàng khảo Ninh Khác phi (皇考寧愨妃)[1].

Năm Khang Hi thứ 31 (1692), ngày 27 tháng 11 (âm lịch), ghi nhận [An Thành phi; 安誠妃] mang theo hai nha hoàn bồi giá, cùng cung nữ 5 người đến Vương phủ cư trú. Đây là phi tần đầu tiên của triều Thanh được ghi nhận rời khỏi Tử Cấm Thành đến cư trú ở Vương phủ. Nhưng trong nhóm góa phụ của Thuận Trị Đế, chỉ duy có Ninh Khác phi là có con trai phong Vương, nên nhiều nhận định An Thành phi chính là Ninh Khác phi. Năm thứ 33 (1694), ngày 21 tháng 6 (âm lịch), Ninh Khác phi Đổng Ngạc thị qua đời tại Vương phủ, các tài liệu về ngày mất đều chỉ ra rõ vị An Thành phi, hay [An Khác phi; 安愨妃] được ghi lại trước đó chính là Ninh Khác phi[2][3].

Ngày Ninh Khác phi mất, Công hầu bá trở xuống cùng quan viên đều tụ tập trước Dụ vương phủ. Khang Hi Đế thân nghênh Nhân Hiến Hoàng thái hậu ngự giá quan lâm, Hoàng đế còn đích thân tế rượu, mệnh dùng nghi lễ cùng cấp với Cung Tĩnh phi[4]. Năm thứ 57 (1718), ngày 19 tháng 2 (âm lịch), kim quan của bà cùng Đoan Thuận phi A Ba Cát Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị bắt đầu được dời từ phụng an điện đến Hiếu Đông lăng (孝東陵), chôn cùng các phi tần khác của Thuận Trị Đế và Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ 《清聖祖實錄》:諭內閣,朕奉太皇太后慈上旨曰,世祖章皇帝博爾濟金氏三妃及董鄂氏妃,久在宮闈,敬謹夙著,宜加封號,以表令儀。朕恪遵慈諭,今尊皇考妃博爾濟金氏曰皇考恭靖妃,皇考妃博爾濟金氏曰皇考淑惠妃,皇考妃博爾濟金氏曰皇考端順妃,皇考妃董鄂氏曰皇考寧謐妃。著會同禮部,詳議典禮以聞。
  2. ^ 王士祯《居易录》载:「六月二十一日,世廟安悫妃薨。公、侯、伯以下满汉文武官员赴裕亲王府齐集。是日,皇太后与上车驾亲临。妃,裕亲王生母也。」
  3. ^ 《星源集慶》:寧愨妃,董鄂氏,長史喀濟海之女,初為庶妃,康熙十二年十二月尊封為寧愨妃,康熙三十三年甲戌六月二十一日薨。
  4. ^ 《欽定大清會典則例》三十三年六月二十一日皇考寧愨妃薨,聖祖仁皇帝親詣冠摘纓緯祭酒行禮,餘儀與康熙二十八年恭靖妃的喪禮相同。