Oxycheilinus bimaculatus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Oxycheilinus bimaculatus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Oxycheilinus
Loài (species)O. bimaculatus
Danh pháp hai phần
Oxycheilinus bimaculatus
(Valenciennes, 1840)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Cheilinus bimaculatus Valenciennes, 1840

Oxycheilinus bimaculatus là một loài cá biển thuộc chi Oxycheilinus trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1840.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Đốm đen nổi bật trên thân của O. bimaculatus

Từ định danh bimaculatus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh, bi ("hai") và maculatus ("có đốm"), hàm ý đề cập đến hai đốm nổi bật trên cơ thể của loài cá này: một đốm ở sau mắt (xanh lam nhạt, bao quanh bởi viền xanh lục), đốm còn lại trên hàng vảy cá thứ sáu (đen sẫm).[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Từ Biển Đỏbờ biển phía nam bán đảo Ả Rập, O. bimaculatus được phân bố rộng rãi trên khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, băng qua vùng biển các nước Đông Nam Á trải dài về phía đông đến nhiều đảo quốc thuộc châu Đại Dương, xa nhất là đến quần đảo Marquises; ngược lên phía bắc đến vùng biển phía nam Nhật Bản (bao gồm quần đảo Ogasawaraquần đảo Ryukyu) và quần đảo Hawaii; phía nam giới hạn đến Úc, bao gồm đảo Lord Howe và các rạn san hô trên biển Tasman.[1]

Việt Nam, loài này được ghi nhận tại đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi),[3] cù lao Chàm (Quảng Nam),[4] bờ biển Ninh Thuận,[5] vịnh Nha Trang (Khánh Hòa),[6] cũng như tại quần đảo Hoàng Sa.

O. bimaculatus sống xung quanh các rạn san hô viền bờ và trong các đầm phá (cũng được tìm thấy trong các thảm cỏ biển) trên nền đáy cát hoặc đá vụn ở độ sâu đến 110 m.[1]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Một kiểu màu khác của O. bimaculatus

O. bimaculatus có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 15 cm.[7] Loài này đa dạng màu sắc, nhưng thường được bắt gặp với màu nâu cam, nâu đỏ hoặc vàng lục lốm đốm các vệt trắng. Vây đuôi của cá đực trưởng thành có hình thoi, tia vây chính giữa dài nhất và tia vây trên cùng kéo dài ra sau tạo thành một sợi vây ngắn (vây đuôi cá cái bo tròn). Cả hai giới đều có một đốm màu xanh lam thẫm ở vây lưng trước (cá đực thường có thêm một đốm đỏ ở trước đốm xanh này), một đốm màu xanh lục sau mắt, trên thân có thêm một chấm đen rất rõ. Cá đực có các vệt màu hồng đến đỏ cam bao quanh mắt.[8][9][10] Cá con có một dải sọc màu sẫm ở mỗi bên thân, đứt đoạn thành các vệt đốm khi lớn lên.[7]

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 12–13.[8]

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của O. bimaculatus có lẽ là các loài thủy sinh không xương sống. Loài này được đánh bắt nhằm mục đích làm thực phẩm và nuôi làm cảnh.[1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d A. To; M. Liu; L. Rocha; M. Craig (2010). Oxycheilinus bimaculatus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T187523A8557703. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187523A8557703.en. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ C. Scharpf; K. J. Lazara (2021). “Order LABRIFORMES: Family LABRIDAE (i-x)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2021.
  3. ^ Nguyễn Văn Long (2016). “Hiện trạng và biến động quần xã cá rạn san hô ở khu bảo tồn biển Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” (PDF). Tuyển tập Nghiên Cứu Biển. 22: 111–125.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  4. ^ Nguyễn Văn Long; Mai Xuân Đạt (2020). “Đặc trưng nguồn lợi cá trong các hệ sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm - Hội An” (PDF). Vietnam Journal of Marine Science and Technology. 20 (1): 105–120. doi:10.15625/1859-3097/13553. ISSN 1859-3097.
  5. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng (2020). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ tỉnh Ninh Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 20 (4A): 125–139. doi:10.15625/1859-3097/15656. ISSN 1859-3097.
  6. ^ Nguyễn Văn Long (2009). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ Nam Trung Bộ”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển T9. 3: 38–66.
  7. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Oxycheilinus bimaculatus trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  8. ^ a b John E. Randall (1995). Coastal Fishes of Oman. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 287. ISBN 978-0824818081.
  9. ^ Oxycheilinus bimaculatus Labridae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2021.
  10. ^ Dianne J. Bray (2020). “Little Maori Wrasse, Oxycheilinus bimaculatus (Valenciennes 1840)”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2021.