Thành viên:OneOtherLight/Carl Wilhelm Scheele

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Carl Wilhelm Scheele
Carl Scheele
Sinh(1742-12-09)9 tháng 12 năm 1742
Stralsund, Swedish Pomerania, today Germany
Mất21 tháng 5 năm 1786(1786-05-21) (43 tuổi)
Köping, Sweden
Quốc tịchGerman-Swedish
Nổi tiếng vìDiscovered oxygen (independently), molybdenum, manganese, barium, chlorine, tungsten and more
Sự nghiệp khoa học
NgànhChemistry

Carl Wilhelm Scheele (tiếng Đức: [ˈʃeːlə], tiếng Thụy Điển: [ˈɧêːlɛ]; 9 tháng 12 năm 1742 - 21 tháng 5 năm 1786) là một nhà hóa dược người Đức gốc Thụy Điển. Isaac Asimov gọi ông là "Scheele khó may mắn" vì ông đã thực hiện một số khám phá hóa học trước những người khác nhưng thường không được công nhận là người đầu tiên.

Ví dụ, Scheele đã phát hiện ra oxy (mặc dù Joseph Priestley đã công bố phát hiện của mình trước), và xác định molypden, vonfram, bari, hydroclo trước Humphry Davy, và còn nhiều trường hợp khác nữa. Scheele đã phát hiện ra các axit hữu cơ tartaric, oxalic, uric, lacticcitric, cũng như axit flohydric, hydrocyanicasen.[1] Ông ưa chuộng tiếng Đức hơn là tiếng Thụy Điển trong suốt cuộc đời mình, do tiếng Đức thường được sử dụng bởi các dược sĩ Thụy Điển.[2]

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Scheele sinh ra ở Stralsund, phía tây Pomerania, thời đó là một lãnh thổ tự trị của Thụy Điển thuộc Đế chế La Mã Thần thánh. Bố của ông là Joachim (hay Johann) Christian Scheele, một nhà buôn ngũ cốc và nhà sản xuất bia từ một gia đình Đức được kính trọng. Mẹ ông là Margaretha Eleanore Warnekros.

Bạn bè của bố mẹ Scheele đã dạy ông cách đọc đơn thuốc và ý nghĩa của các kí hiệu hóa học và dược phẩm.[3] Vào năm 1757, ở tuổi mười bốn, Carl được gửi đến Gothenburg với tư cách là một dược sĩ tập sự[2] cùng với một người bạn khác của gia đình và là một dược sư. (Martin Andreas Bauch). Scheele tiếp tục giữ vị trí này trong tám năm. Trong thời gian này, ông thực hiện các thí nghiệm đến khuya và đọc các tác phẩm của Nicolas Lemery, Caspar Neumann, Johann von Löwenstern-KunckelGeorg Ernst Stahl (người đầu tiên đưa ra Thuyết phlogiston). Phần lớn các suy đoán lý thuyết sau này của Scheele dựa trên Stahl.

Năm 1765, Scheele làm việc dưới sự điều hành của CM Kjellström ở Malmö, một nhà bào chế thuốc tiến bộ và có nhiều thông tin. Không chỉ vậy, ông quen biết với Anders Jahan Retzius, một giảng viên tại Đại học Lund và sau đó là giáo sư hóa học ở Stockholm. Scheele đến Stockholm từ năm 1767 đến năm 1769 và trở thành dược sĩ. Trong thời gian này, ông đã phát hiện ra axit tartaric và cùng với người bạn của mình, Retzius, và nghiên cứu mối quan hệ của vôi sống với canxi cacbonat. Ở thủ đô, ông cũng làm quen với nhiều người nổi tiếng, chẳng hạn như: Abraham Bäck, Peter Jonas Bergius, Bengt BergiusCarl Friedreich von Schultzenheim .

Vào mùa thu năm 1770, Scheele trở thành giám đốc phòng thí nghiệm các nhà thuốc lớn của Locke, tại Uppsala, khoảng 40 dặm về phía bắc của Stockholm. Phòng thí nghiệm đã cung cấp hóa chất cho Giáo sư Hóa học Torbern Bergman. Một tình bạn phát triển giữa Scheele và Bergman sau khi Scheele phân tích phản ứng mà Bergman và trợ lý của anh ta là Johan Gottlieb Gahn không thể giải quyết. Phản ứng giữa đá tiêu nóng chảy và axit axetic tạo ra chất khí màu đỏ. Nghiên cứu sâu hơn về phản ứng này sau đó đã giúp ông phát hiện ra oxy (xem "Thuyết phlogiston" bên dưới). Dựa trên tình bạn và sự tôn trọng này, Scheele được toàn quyền sử dụng phòng thí nghiệm của Bergman. Cả hai người đều có lợi từ mối quan hệ công việc của họ. Năm 1774, Scheele được Peter Jonas Bergius đề cử làm thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển, bầu ngày 4 tháng 2 năm 1775. Năm 1775, Scheele quản lý một hiệu thuốc ở Köping trong một thời gian ngắn. Từ cuối năm 1776 đến đầu năm 1777, Scheele thành lập doanh nghiệp của riêng ông tại đó.

Vào ngày 29 tháng 10 năm 1777, Scheele ngồi vào ghế lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất, tại một cuộc họp của Viện Hàn lâm Khoa học và vào ngày 11 tháng 11, ông đã vượt qua bài kiểm tra chế thuốc với kết quả tốt hơn cả Đại học Y khoa Hoàng gia. (and on November 11 passed the examination as apothecary before the Royal Medical College and did so with highest honours: dịch sau =))) Sau khi trở về Köping, ngoài công việc kinh doanh, ông đã cống hiến hết mình cho các nghiên cứu khoa học với sự ra đời một loạt các bài báo quan trọng.[3]

Các thuyết được công bố trước Scheele[sửa | sửa mã nguồn]

Khi còn là một thiếu niên, Scheele đã học về thuyết thống trị về chất khí: thuyết phlogiston, vào những năm 1770. Phlogiston, được phân loại là "vật chất lửa", được cho là chất xuất hiện khi được giải phóng khỏi bất kỳ vật liệu cháy nào, và khi nó cạn kiệt, quá trình cháy sẽ dừng lại. Khi Scheele phát hiện ra ôxy, ông gọi nó là "khí lửa" vì nó hỗ trợ sự cháy. Scheele giải thích về khí oxy bằng cách sử dụng các thuật ngữ phlogistical vì ông không tin rằng khám phá của mình đã bác bỏ Thuyết phlogiston .

Trước khi Scheele khám phá ra ôxy, ông đã nghiên cứu về không khí. Không khí được cho là một yếu tố tạo nên môi trường trong đó các phản ứng hóa học diễn ra nhưng không can thiệp vào các phản ứng. Nghiên cứu của Scheele về không khí giúp ông kết luận rằng không khí là hỗn hợp của "khí lửa" và "khí bẩn"; hay nói cách khác là hỗn hợp của hai chất khí. Scheele đã thực hiện nhiều thí nghiệm, trong đó ông đun nóng các chất như Saltpetre (kali nitrat), mangan đioxit, nitrat kim loại nặng, bạc cacbonatthủy ngân oxit . Trong tất cả các thí nghiệm này, ông cô lập được cùng một loại khí: "không khí lửa" của mình, mà ông tin rằng đã kết hợp với phlogiston trong vật liệu và giải phóng ra ngoài trong các phản ứng tỏa nhiệt.

Tuy nhiên, công bố đầu tiên của ông, Chemische Abhandlung von der Luft und dem Feuer, đã được giao cho nhà in Thụy Điển vào năm 1775, nhưng không được xuất bản cho đến năm 1777, mà lúc đó cả Joseph PriestleyLavoisier đều đã công bố thí nghiệm và kết luận của họ liên quan đến oxy và thuyết phlogiston. Carl được ghi nhận vì đã tìm thấy oxy cùng với hai người khác, Joseph Priestley và Antoine Lavoisier. Ấn bản tiếng Anh đầu tiên, Chemical Observation and Experiments on Air and Fire (tạm dịch: Quan sát hóa học và Thí nghiệm về Không khí và Lửa) được xuất bản năm 1780, với phần giới thiệu "Chemical Treatise on Air and Fire" (tạm dịch: Luận án Hóa học về Không khí và Lửa).[4]

Thuyết phlogiston[sửa | sửa mã nguồn]

Bản khắc trên trang tiêu đề của Chemical Treatise on Air and Fire viết bởi Scheele (tạm dịch :Luận án Hóa học về Không khí và Lửa) (1777)
(d. Königl. Schwed. Acad. d. Wissenschaft Mitgliedes, Chemische Abhandlung von der Luft und dem Feuer)

Scheele đã đạt được nhiều kết quả quan trọng một cách đáng kinh ngạc mà không cần đến các thiết bị thí nghiệm đắt tiền mà Antoine-Laurent Lavoisier cùng thời với ông ở Paris đã quen thuộc. Thông qua các nghiên cứu của Lavoisier, Joseph Priestley, Scheele và những người khác, hóa học đã trở thành một lĩnh vực tiêu chuẩn hóa với các quy trình nhất quán. Mặc dù Scheele không thể hiểu được tầm quan trọng của việc phát hiện ra chất mà Lavoisier sau này đặt tên là oxy, nhưng công trình nghiên cứu của ông rất cần thiết cho việc từ bỏ thuyết phlogiston đã tồn tại từ lâu.[5]

Nghiên cứu của Scheele về khí (chưa được đặt tên là oxy) đã được thúc đẩy bởi lời phàn nàn của Torbern Olof Bergman, một giáo sư tại Đại học Uppsala, người cuối cùng trở thành bạn của Scheele. Bergman thông báo cho Scheele biết rằng "saltpeter" mà anh mua từ chủ của Scheele, sau khi đun nóng lâu, đã tạo ra hơi màu đỏ (hiện tại được gọi là nitơ điôxít) khi nó tiếp xúc với axit axetic. Giải thích nhanh chóng của Scheele là "saltpeter" đã hấp thụ nhiệt phlogiston (đã bị khử thành nitrit, theo thuật ngữ hiện đại) và tạo ra một khí "phlogisticated" mới như một nguyên tắc hoạt động khi kết hợp với một axit (một axit yếu).

Bergman tiếp tục đề nghị Scheele phân tích các đặc tính của mangan (IV) oxit. Chính việc thông qua các nghiên cứu về oxit mangan (IV), Scheele đã phát triển khái niệm của mình về "khí lửa" (tên của ông cho ôxy). Cuối cùng, ông thu được oxi bằng cách đun nóng oxit thủy ngân, bạc cacbonat, magie nitrat và các muối nitrat khác. Scheele đã viết về những phát hiện của mình cho Lavoisier, người thấy được tầm quan trọng của phát hiện. Khám phá về oxy của ông (khoảng năm 1771) sớm hơn theo thứ tự thời gian so với công trình tương ứng của Priestley và Lavoisier, nhưng ông đã không công bố khám phá này cho đến năm 1777, sau khi cả hai đối thủ của ông đã công bố.[6]

Although Scheele would always believe in some form of the phlogiston theory, his work reduced phlogiston to an unusually simple form, complicated only by the fact that chemists of Scheele's day still believed that light and heat were elements and were to be found in combination with them. Thus, Scheele assumed that hydrogen was composed of phlogiston (a reducing principle lost when objects were burned) plus heat. Scheele speculated that his fire air or oxygen (which he found the active part of air, estimating it to compose one quarter of air) combined with the phlogiston in objects to produce either light or heat (light and heat were presumed to be composed of differing proportions of phlogiston and oxygen) .GG; Mặc dù Scheele luôn tin vào một dạng nào đó của thuyết phlogiston, nhưng công trình của ông đã hạ thuyết trở thành một dạng đơn giản khác thường, phức tạp chỉ bởi thực tế là các nhà hóa học thời Scheele vẫn tin rằng ánh sáng và nhiệt là các nguyên tố và phải được tìm thấy kết hợp với chúng. Vì vậy, Scheele giả định rằng hydro được cấu tạo bởi "phlogiston" (một nguyên lý khử bị mất khi các vật thể bị đốt cháy) cộng với nhiệt. Scheele suy đoán rằng không khí lửa hoặc oxy của ông(mà anh ta tìm thấy phần hoạt động của không khí, ước tính nó tạo ra một phần tư không khí) kết hợp với phlogiston trong các vật thể để tạo ra ánh sáng hoặc nhiệt (ánh sáng và nhiệt được cho là bao gồm khác nhau tỷ lệ của phlogiston và oxy). ---DỊCH SAU---

Khi các nhà hóa học khác sau đó chỉ ra rằng nước được tạo ra khi đốt cháy hydro và sự rỉ sét của kim loại làm tăng trọng lượng của chúng hay là việc cho nước vào sắt nóng tạo ra hydro, Scheele đã sửa đổi lý thuyết của mình để gợi ý rằng oxy là muối (hay "nguyên lý muối" của nước), và khi được thêm vào sắt, nước được tái tạo, làm tăng thêm trọng lượng của sắt như gỉ.

Pyrolusit hay MnO2 .

Các nguyên tố và hợp chất mới[sửa | sửa mã nguồn]

Ngoài sự công nhận chung của ông về việc phát hiện ra oxy, Scheele được cho là người đầu tiên phát hiện ra các nguyên tố hóa học khác như bari (1772),[7] mangan (1774),[8] molypden (1778),[9]vonfram (1781),[10] cũng như một số hợp chất hóa học, bao gồm axit xitric,[11] axit lactic,[12] glycerol,[13] hydro xyanua (còn được gọi là (khi ở trong dung dịch nước) axit prussic),[14] hydro florua,[15]hydro sunfua (1777).[16] Ngoài ra, ông còn phát hiện ra một phương pháp tương tự như phương pháp thanh trùng, cùng với phương pháp sản xuất phốt pho hàng loạt (1769), đưa Thụy Điển trở thành một trong những nhà sản xuất diêm hàng đầu thế giới.

Khí clo.

Scheele đã thực hiện một khám phá khoa học vô cùng quan trọng khác vào năm 1774, được cho là mang tính cách mạng hơn cả việc cô lập oxy. Ông xác định được vôi, silicasắt trong một mẫu pyrolusit (mangan đioxit không tinh khiết) do người bạn của ông, Johann Gottlieb Gahn, đưa tới, nhưng không thể xác định được một thành phần (mangan, mà Scheele phát hiện như là một nguyên tố mới nhưng không thể phân lập được). Khi cho pyrolusit tác dụng với axit clohiđric trên chậu cát ấm, một chất khí màu vàng lục, mùi xốc được tạo ra.[17] Ông nhận thấy rằng khí này chìm xuống đáy của một chai hở và đặc hơn không khí bình thường. Ông cũng lưu ý rằng khí này không hòa tan trong nước. Nó chuyển nút chai thành màu vàng và loại bỏ tất cả màu sắc trên giấy quỳ xanh ẩm và một số loại hoa. Ông gọi loại khí có khả năng tẩy trắng này là "axit muriatic khử hóa chất" (axit clohydric dephlogisticated, hay axit clohiđric oxy hóa). Cuối cùng, Ngài Humphry Davy đặt tên cho khí là clo, liên quan đến màu lục nhạt của nó.

Tính chất tẩy trắng của clo cuối cùng đã được Berzelius phát triển thành một ngành công nghiệp, và trở thành nền tảng của ngành khử trùng và khử mùi thứ hai đối với các mô và vết thương thối rữa (bao gồm cả vết thương ở người) trong tay Labarraque, vào năm 1824.

Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]

Tượng Scheele ở Köping, Thụy Điển.

Vào mùa thu năm 1785, Scheele bắt đầu mắc các triệu chứng liên quan đến thận. Vào đầu năm 1786, ông cũng mắc một căn bệnh về da, kết hợp với các vấn đề về thận, khiến ông cảm thấy yếu đến mức có thể nhìn thấy trước cái chết. Với suy nghĩ này, anh kết hôn với người vợ góa của người tiền nhiệm,[3] Pohl, hai ngày trước khi chết, để anh có thể truyền lại quyền sỡ hữu không thể chối cãi đối với hiệu thuốc và tài sản của mình cho cô ấy.

Trong khi các thí nghiệm của Scheele tạo ra các chất mà từ lâu đã được coi là nguy hiểm, các hợp chất và nguyên tố mà ông sử dụng để bắt đầu thí nghiệm của mình lại rất nguy hiểm, đặc biệt là các kim loại nặng. Giống như hầu hết các nhà khoa học cùng thời, trong thời đại mà có rất ít phương pháp xác định đặc tính hóa học, Scheele ngửi và nếm bất kỳ chất mới nào mà ông phát hiện ra.[18] Việc tiếp xúc với asen, thủy ngân, chì, các hợp chất của chúng và có lẽ cả axit flohydric mà ông đã phát hiện ra, cũng như các chất khác đã gây ra cái chết cho Scheele ở tuổi 43 vào ngày 21 tháng 5 năm 1786, tại nhà riêng ở Köping. Các bác sĩ cho biết, ông qua đời vì nhiễm độc thủy ngân .

Các bài báo được xuất bản[sửa | sửa mã nguồn]

Mémoires de chymie, 1785, bản dịch tiếng Pháp của Mme. Claudine Picardet

Tất cả các bài báo sau đây đã được xuất bản bởi Scheele trong vòng mười lăm năm.[3]

  1. (1771) Fluospar and its Acid
  2. (1774) "Braunstein" or Magnesia [ Manganese ], two papers
  3. (1775) Benzoin Salt [ Benzoic Acid ]
  4. Arsenic and its Acid
  5. Silica, Alumina, and Alum
  6. Urinary Calculi
  7. (1777) Chemical Treatise on Air and Fire
  8. (1778) Wet Process for Preparing Mercurius dulcis [ Calomel ]
  9. Simple Process for Preparing Pulvis Algarothi [ oxychloride of antimony ]
  10. Molybdenum
  11. Preparation of a New Green Color
  12. (1779) On the Quantity of Pure Air daily present in the Atmosphere
  13. Decomposition of Neutral Salts by Lime or Iron
  14. Plumbago
  15. Heavy spar
  16. (1780) Fluospar
  17. Milk and its Acid
  18. Acid of Milk sugar
  19. On the Relationship of Bodies
  20. (1781) Tungsten
  21. The Combustible Substance in Crude Lime
  22. Preparation of White Lead
  23. (1782) Ether
  24. Preservation of Vinegar
  25. Coloring Matter in Berlin Blue
  26. (1783) Berlin Blue
  27. Peculiar Sweet Principle from Oils and Fats [ Glycerin ]
  28. (1784) Attempt to Crystallize Lemon juice
  29. Constituents of Rhubarb-earth [ Calcium Oxalate ] and Preparation of Acetosella Acid [ Oxalic Acid ]
  30. The Coloring "Middle-salt" of "Blood lye" [Yellow Prussiate of Potassium]
  31. Air-acid [ Carbonic Acid or Carbon dioxide ]; Benzoic Acid. Lapis infernalis
  32. Sweet Principle from Oils and Fats. Air-acid
  33. (1785) Acid of Fruits, especially of Raspberry
  34. Phosphate of Iron; and Pearl-salt
  35. Occurrence of Rhubarb-earth [see 29] in various Plants
  36. Preparation of Magnesia alba
  37. Fulminating Gold. Corn oil [ Fusel oil ]. Calomel
  38. Air-acid
  39. Lead amalgam
  40. Vinegar-naphtha
  41. Lime. Ammonia or Volatile Alkali
  42. Malic Acid and Citric Acid
  43. Air, Fire, and Water
  44. (1786) The Essential Salt of Galls [ Gallic Acid ]
  45. Nitric Acid
  46. Oxide of Lead. Fuming Sulphuric Acid
  47. Pyrophorus
  48. Peculiarities of Hydrofluoric Acid.

Các bài báo của Scheele xuất hiện đầu tiên trong Transactions (tạm dịch:Giao dịch) của Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển, và trong các tạp chí định kỳ khác nhau như Chemische Annalen của Lorenz Florenz Friedrich von Crell . Công trình của Scheele đã được thu thập và xuất bản bằng bốn thứ tiếng bắt đầu bằng Mémoires de Chymie của Mme. Claudine Picardet năm 1785 và Chemical Essays (Tạm dịch: Các tiểu luận hóa học) của Thomas Beddoes năm 1786, tiếp theo là tiếng Latinh và tiếng Đức.[19] Một bản dịch tiếng Anh khác được xuất bản bởi Tiến sĩ Leonard Dobbin, vào năm 1931. [20]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Richard Myers, The Basics of Chemistry (2003)
  2. ^ a b Fors, Hjalmar 2008. Stepping through Science’s Door: C. W. Scheele, from Pharmacist's Apprentice to Man of Science. Ambix 55: 29-49
  3. ^ a b c d Castle, Fred'k A. American Druggist Vol.15, August, 1886 "Carl Wilhelm Scheele"
  4. ^ p101, A Source Book in Chemistry, 1400-1900, Henry Marshall Leicester, Herbert S. Klickstein - 1969
  5. ^ J. R. Partington (1962). A History of Chemistry, vol. 3. Macmillan. tr. 205–36.
  6. ^ J. R. Partington (1962). A History of Chemistry, vol. 3. Macmillan. tr. 219–20.
  7. ^ Scheele (1774) "Om brunsten, eller magnesia, och dess egenskaper" (On brown-stone [i.e., manganese] or magnesia, and its properties), Kongliga Vetenskaps Academiens Handlingar (Proceedings of the Royal Scientific Academy [of Sweden]), 35 : 89-116. From page 102: "4:to Något af en ny Jord-art, hvilken, så mycket jag vet, ännu är obekant." (4th Something of a new type of ore [i.e., mineral], which, as far as I know, is still unknown.) From page 112: "Den besynnerliga Jord-arten, som visar sig vid alla klara uplösningar af Brunstenen, hvarom något är anfördt i 18. §." (This peculiar type of ore [i.e., mineral] appears in all clear solutions of Brown-stone, concerning which something is stated in section 18.)
  8. ^ Scheele (1774) "Om brunsten, eller magnesia, och dess egenskaper" (On manganese or magnesia, and its properties), Kongliga Vetenskaps Academiens Handlingar (Proceedings of the Royal Scientific Academy [of Sweden]), 35 : 89-116.
  9. ^ Carl Wilhelm Scheele (1778) "Försök med Blyerts, Molybdæna" (Experiment with Lead, Molybdæna), Kongliga Vetenskaps Academiens Handlingar, 39 : 247-255.
  10. ^ Carl Wilhelm Scheele (1781) "Tungstens bestånds-delar" (Tungsten's constituent components), Kongliga Vetenskaps Academiens Nya Handlingar (New Proceedings of the Royal Academy of Sciences [of Sweden]), 2 : 89-95.
  11. ^ Carl Wilhelm Scheele (1784) "Anmärkning om Citron-Saft, samt sätt att crystallisera den samma" (Note on lemon juice, as well as ways to crystallize the same), Kongliga Vetenskaps Academiens Nya Handlingar (New Proceedings of the Royal Academy of Science), 5 : 105-109.
  12. ^ Carl Wilhelm Scheele (1780) "Om Mjölk och dess syra" (About milk and its acid), Kongliga Vetenskaps Academiens Nya Handlingar (New Proceedings of the Royal Academy of Science), 1 : 116-124.
  13. ^ Carl Wilhelm Scheele (1783) "Rön beträffande ett särskilt Socker-Ämne uti exprimerade Oljor och Fettmor" (Findings concerning a particular sweet substance in expressed oils and fatty substances), Kongliga Vetenskaps Academiens Nya Handlingar (New Proceedings of the Royal Academy of Science), 4 : 324-329.
  14. ^ See:
  15. ^ Scheele (1771) "Undersŏkning om fluss-spat och dess syra" (Investigation of fluorite and its acid), Kongliga Vetenskaps Academiens Handlingar (Proceedings of the Royal Academy of Science [of Sweden]), 32 : 129–138.
  16. ^ Carl Wilhelm Scheele, Chemische Abhandlung von der Luft und dem Feuer (Chemical treatise on air and fire) (Upsala, Sweden: Magnus Swederus, 1777), § 97: Die stinckende Schwefel Luft (The stinking sulfur air [i.e., gas]), pp. 149-155.
  17. ^ See:
  18. ^ Asimov, Isaac (1966). The Noble Gases. ISBN 978-0465051298
  19. ^ Ferguson, John. “Karl Wilhelm Scheele”. Encyclopaedia Britannica. 1902. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2017.
  20. ^ Journal of the Chemical Society: obituaries (L Dobbin), 1952

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

[[Thể loại:Nhà hóa học Thụy Điển]] [[Thể loại:Thể loại:Nam nhà văn Đức]] [[Thể loại:Người phát hiện ra nguyên tố hóa học]] [[Thể loại:Mất năm 1786]] [[Thể loại::Sinh 1742]] [[Thể loại:Pages with unreviewed translations]]