Thành viên:VMQ123/Nháp/5

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
"Dance in the Dark"
Bài hát của Lady Gaga từ album The Fame Monster
Phát hành25 tháng 8 năm 2010 (2010-08-25)
Thu âmMetropolis Studios (London)
Thể loạiEuropop
Thời lượng4:49
Hãng đĩa
Sáng tác
Sản xuất
  • Fernando Garibay
  • Lady Gaga

"Dance in the Dark" (tạm dịch: "Khiêu vũ trong màn đêm") là một bài hát của nữ ca sĩ người Hoa Kỳ Lady Gaga trích từ đĩa mở rộng (EP) thứ ba của cô—The Fame Monster (2009)—album tái phát hành của album phòng thu đầu tay The Fame (2008). Bài hát kể về một cô gái muốn quan hệ tình dục trong bóng tối vì cô cảm thấy bất an với thân thể của mình. Trong khoảng thời gian làm việc cũng tổ chức từ thiện MAC AIDS Fund, Gaga đã tiếp cận với nhiều cô gái rơi vào tình cảnh tương tự. Từ đó, cô khẳng định rằng bài hát không nói về sự tự do mà như một lời cam đoan rằng cô hiểu rõ cảm giác của họ. "Dance in the Dark" là một bài hát thuộc thể loại Europop mang âm hưởng của nhạc retronew wave và có đoạn mở đầu nghe như những âm thanh lắp bắp. Ở đoạn dạo giữa của bài hát, Gaga nêu tên của những người nổi tiếng bạc mệnh.

Ban đầu, hãng thu âm của Gaga là Interscope Records dự định phát hành "Dance in the Dark" làm đĩa đơn thứ ba từ The Fame Monster, nhưng Gaga không đồng ý và thay vào đó lựa chọn "Alejandro". Bài hát được phát hành như một đĩa đơn vào tháng 4 năm 2010. Vài tháng sau, hãng Universal Music France trực thuộc Universal Music Group gửi "Dance in the Dark" cho các đài phát thanh ở Pháp, đồng nghĩa với việc bài hát trở thành đĩa đơn thứ tư và cuối cùng thuộc EP tại đất nước này. Các nhà phê bình âm nhạc đánh giá cao phần điệp khúc và chủ đề của bài hát, nhưng một số lại cho rằng phần âm nhạc của bài hát "[...]". "Dance in the Dark" được một số nhà phê bình xem là một trong những bài hát hay nhất của Gaga. Bài hát lọt vào top 10 trên các bảng xếp hạng âm nhạc tại Ba Lan, Hungary, Cộng hoà Séc và Dance/Electronic Digital Songs. Bài hát cũng nhận một đề cử giải Grammy cho hạng mục Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất.

"Dance in the Dark" là bài hát mở đầu của các buổi hoà nhạc thuộc chuyến lưu diễn The Monster Ball Tour. Trong chặng đầu của chuyến lưu diễn, Gaga đứng sau một chiếc màn hình khổng lồ và biểu diễn bài hát. Trong những buổi hoà nhạc được phục chế về ý tưởng, cô trình bày bài hát trên sân khấu được dựng theo bối cảnh của Thành phố New York về đêm. Nữ ca sĩ cũng trình diễn ca khúc tại lễ trao giải BRIT năm 2010—như một lời truy điệu đến người bạn thân của cô là nhà thiết kế thời trang Alexander McQueen, người vừa tự sát vài ngày trước đó—và chương trình hoà nhạc lưu trú, Enigma của cô. Một bản phối lại của "Dance in the Dark" được phát hành trong album phối lại The Remix (2010) của Gaga.

Bối cảnh ra đời và phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

"Dance in the Dark" được viết lời, sản xuấtcải biên bởi Lady GagaFernando Garibay. Garibay đảm nhiệm vai trò lập trình âm thanh. Jonas Wrestling, Dan Parry và Christian Delano đóng vai trò là kỹ sư âm thanh trong quá trình hoàn thiện bài hát. "Dance in the Dark" được thu âm tại phòng thu Metropolis Studios toạ lạc tại London, Anh.

Trong một buổi trò chuyện với tờ Los Angeles Times, Gaga tiết lộ về nguồn cảm hứng khiến "Dance in the Dark" ra đời là cảnh hai người thân mật trong phòng ngủ. Bài hát khắc hoạ một cô gái thích được làm tình trong bóng tối bởi cô cảm thấy bất an về cơ thể của mình. Gaga làm rõ: "Cô ấy không muốn bạn trai nhìn thấy cô khoả thân. Cô ấy cảm thấy được tự do, cô ấy sẽ giải thoát con thú trong người cô ấy, nhưng chỉ khi không có ánh sáng." Trong khoảng thời gian làm việc với tổ chức từ thiện MAC Aids Fund, nữ ca sĩ nhận ra rằng những người phụ nữ tầm tuổi cô không bộc lộ những nỗi lo âu ấy ra ngoài vì sợ rằng bạn trai của họ sẽ không yêu họ nếu họ làm thế. Gaga cũng cho biết chính cô cũng là nạn nhân của vấn đề ngoại hình và cảm giác hoài nghi bản thân.

Những điều mới mẻ này bước vào cuộc sống của tôi và thay đổi cách tôi nhìn nhận mục đích của bản thân, nhưng riêng "Dance in the Dark" thì nói về việc tôi muốn sống—nhưng chú ý rằng, nó không phải là "Dance in the Light". Tôi không phải là một ca sĩ nhạc Phúc âm với mong muốn thay đổi mọi người. Điều tôi muốn nói ở đây là "Tôi hiểu rồi. Tôi hiểu cảm giác của bạn, tôi cũng cảm thấy như vậy, đó là chuyện bình thường." Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng tôi có thể nhen nhóm một chút sự thay đổi gì đó trong tiềm thức của mọi người thông qua chiến dịch này. Dù họ [chỉ] hát "Dance in the Dark" nhưng họ cũng khiêu vũ, họ cảm thấy tự do, họ đang giải thoát. Nhưng bài hát này không phải nói về tự do, mà nói về [chuyện] tôi đã hiểu. Tôi cảm thông cho bạn.

— Lady Gaga, Los Angeles Times, 2009

Vào ngày 9 tháng 11 năm 2009, "Dance in the Dark" được phát hành với vai trò là một đĩa đơn quảng bá từ đĩa mở rộng (EP) The Fame Monster—là album tái phát hành của album phòng thu đầu tay của Gaga có tựa The Fame (2008)—thông qua việc bài hát được bày bán trên iTunes Store của Bỉ. Theo MTV News, hãng đĩa Interscope Records có dự định chọn "Dance in the Dark" làm đĩa đơn thứ ba của EP, nhưng Gaga lại chọn "Alejandro", và "Alejandro" được phát hành với vai trò là đĩa đơn vào ngày 20 tháng 4 năm 2010. Vào ngày 25 tháng 8 năm 2010, hãng Universal Music France gửi "Dance in the Dark" cho đài phát thanh tại Pháp, đồng nghĩa với việc bài hát trở thành đĩa đơn thứ tư và cuối cùng của EP tại quốc gia này. Vào tháng 3 năm 2010, Gaga cho ra mắt album phối lại đầu tiên của cô mang tên The Remix, trong đó bao gồm một bản phối lại của Monarchy Stylites của "Dance in the Dark".

Biểu diễn trực tiếp[sửa | sửa mã nguồn]

Lady Gaga thể hiện ca khúc "Dance in the Dark" trong một đêm diễn thuộc lượt đầu tiên (trên) và trong một đêm diễn thuộc lượt đã tân trang của The Monster Ball Tour (dưới).

"Dance in the Dark" là ca khúc mở màn cho các buổi hoà nhạc thuộc chuyến lưu diễn The Monster Ball Tour (2009–2011). Trong giai đoạn lưu diễn năm 2009, buổi hoà nhạc bắt đầu khi Gaga xuất hiện đằng sau một chiếc màn hình khổng lồ được chiếu sáng bởi ánh đèn laser màu xanh lục. Về trang phục, nữ ca sĩ mặc một bộ áo liền quần màu bạc có gắn đá quý và bóng đèn, kèm theo đó là một chiếc mặt nạ và một lớp trang điểm ăn khớp với nhau. Cô trình bày "Dance in the Dark" với sự phụ hoạ của các vũ công "gân guốc" mặc áo liền quần và đội mũ balaclava trắng.

Trong giai đoạn 2010–2011, khi chuyến lưu diễn đã được tân trang về ý tưởng, "Dance in the Dark" tiếp tục được chọn là ca khúc mở đầu. Trong tiết mục, Gaga thực hiện vũ đạo, tạo nhiều dáng đứng và để bóng in lên một cái tấm phủ dựng trước cô. Khi bài hát kết thúc, tấm phủ được kéo lên, để lộ bối cảnh sân khấu tựa như khung cảnh Thành phố New York khi về đêm, trong đó bao gồm các biển hiệu neon nhấp nháy đề các từ "ugly" (xấu xí), "sexy" và "liquor" (rượu chè), cầu thang thoát hiểm khi có cháy và một chiếc xe taxi màu vàng không còn hoạt động. Theo tiến sĩ Hoa Kỳ học Katrin Horn, tiết mục "Dance in the Dark" đã làm nổi bật một chủ đề thường thấy trong các tác phẩm của Gaga từ khởi đầu của chuyến lưu diễn—"sự ám ảnh về nền văn hoá đại chúng cả về khía cạnh suy đồi và khía cạnh cái đẹp, hay nói chính xác hơn là sự suy đồi nằm trong cái đẹp"—vì bài hát được viết cho những người nổi tiếng đã ra đi phải chịu nhiều đau khổ bởi danh tiếng thuở sinh thời.

Tại lễ trao giải BRIT năm 2010 được tổ chức tại trung tâm triển lãm Earls Court Exhibition Centre, Gaga đã biểu diễn "Dance in the Dark" cùng với đĩa đơn thứ hai từ The Fame Monster là "Telephone". Do sự ra đi không lâu trước đó của nhà thiết kế thời trang Alexander McQueen, cô quyết định đổi chủ đề cho màn trình diễn vào ngay phút chót như một lời truy điệu dành cho người bạn quá cố của mình. Cô chia sẻ: "Tôi muốn có một màn trình diễn thật sự, thật sự tân tiến, một thứ gì đó mà tôi cho là một thực thể của tương lai." Bài hát được thể hiện một cách "dè dặt" (đánh giá từ The Wall Street Journal) khi Gaga—mặc bộ áo liền quần viền bằng ren và đội một mái tóc giả phồng lớn—rời chiếc piano và nhịp điệu mang âm hưởng disco của bài hát bắt đầu được phát. Cô tiến lại chiếc keytar và trình bày một bản techno của bài hát. Vào năm 2015, Liv Moss từ Official Charts Company đã gọi màn trình diễn này là một trong những màn trình diễn "vĩ đại nhất, xuất sắc nhất và kỳ lạ nhất" trong lịch sử của lễ trao giải BRIT. Vào năm 2016, Daniel Welsh từ Huffpost UK đã liệt nó vào danh sách 15 màn trình diễn đáng nhớ nhất của Gaga trên màn ảnh.

"Dance in the Dark" góp mặt vào danh sách tiết mục của các buổi diễn thuộc chương trình hòa nhạc lưu trú tại Las Vegas của Gaga, Enigma (2018–2020). Một bản sao ngoài hành tinh của nữ ca sĩ có tên là Enigma xuất hiện, thể hiện một đoạn thoại dạo giữa và đưa Gaga đến một môi trường mô phỏng tương lai. Gaga trở lại sân khấu trong một chiếc áo khoác màu xanh lá huỳnh quang và biểu diễn bài hát.

Xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Lịch sử phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày phát hành và định dạng của "Dance in the Dark"
Khu vực Ngày phát hành Định dạng Hãng đĩa Tham khảo
Bỉ Bỉ 9 tháng 11 năm 2009 Tải kỹ thuật số[a] Interscope [18]
Pháp Pháp 25 tháng 8 năm 2010 Airplay trên đài phát thanh Universal [19]

Bản cover của Rina Sawayama[sửa | sửa mã nguồn]

Rina Sawayama vào năm 2022.

Vào ngày 29 tháng 6 năm 2020, bản cover "Dance in the Dark" của nữ ca sĩ người Anh gốc Nhật Bản Rina Sawayama được phát hành trong tuyển tập Spotify Singles của Spotify. Thuộc thể loại electropop và mang âm hưởng của nu metal, ca khúc được sản xuất bởi Clarence Clarity và góp mặt trong album phối lại của Sawayama mang tên Sawayama Remixed (2020). Ra đời trong bối cảnh đại dịch COVID-19 hoành hành, Sawayama đã thu âm ca khúc tại phòng thu tại gia thay vì đến phòng thu Electric Lady Studios toạ lạc ở Thành phố New York, là nơi mà hầu hết các bản nhạc trong tuyển tập Spotify Singles được thu âm.

Các nhà phê bình Robin Murray từ tạp chí Clash và Brendan Wetmore từ tạp chí Paper đã có những phản hồi tích cực về bản cover. Murray đã sử dụng tính từ "chấn động" ("seismic") để miêu tả tác phẩm của Sawayama. Wetmore nhận xét: "Giọng hát của Sawayama là đối thủ đáng gờm với trình độ màu mè kịch tính của Lady Gaga bằng một cách nào đó." Nhà phê bình cho rằng phiên bản do Sawayama trình bày như "vẽ một bức tranh của câu chuyện tình yêu Disney được hoạt hoạ", vì "ca khúc khơi gợi lên những xúc cảm khi lắng nghe những nhạc phẩm của những nhạc sĩ tạo hit vĩ đại nhất của nhạc pop của những năm cuối thập niên 1990, là thời kì hoàng kim của Disney ballad."

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú
  1. ^ Bài hát được phát hành với vai trò là đĩa đơn quảng bá.
Nguồn tham khảo
  1. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập 26 tháng 3 năm 2023.
  2. ^ "Listy bestsellerów, wyróżnienia :: Związek Producentów Audio-Video" (bằng tiếng Ba Lan). Polish Dance Top 50. Truy cập 26 tháng 3 năm 2023.
  3. ^ “Listy bestsellerów, wyróżnienia :: Związek Producentów Audio-Video”. Polish Airplay New. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2023.
  4. ^ "Ultratop.be – Lady Gaga – Dance in the Dark" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập 26 tháng 3 năm 2023.
  5. ^ "Ultratop.be – Lady Gaga – Dance in the Dark" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập 26 tháng 3 năm 2023.
  6. ^ "Lady Gaga Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập 26 tháng 3 năm 2023.
  7. ^ Lady Gaga — Dance in the Dark (bằng tiếng Anh). Tophit. Truy cập 26 tháng 3 năm 2023.
  8. ^ “IFPI ČR Hitparáda – RADIO TOP100 Oficiální – Lady Gaga (Dance in the Dark)” (bằng tiếng Séc). ČNS IFPI. 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2023.
  9. ^ "Lady Gaga Chart History (Bubbling Under Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập 26 tháng 3 năm 2023.
  10. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên ded
  11. ^ "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Single (track) Top 40 lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập 26 tháng 3 năm 2023.
  12. ^ "lescharts.com – Français" (bằng tiếng Pháp). Les classement de telechargement single. Truy cập 26 tháng 3 năm 2023.
  13. ^ "Bảng xếp hạng Nga Airplay vào ngày 17 tháng 1 năm 2011" (bằng tiếng Anh). Tophit. Truy cập 26 tháng 3 năm 2023.
  14. ^ "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập 26 tháng 3 năm 2023.
  15. ^ "Australian-charts.com – Lady Gaga – Dance in the Dark" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập 26 tháng 3 năm 2023.
  16. ^ "Bảng xếp hạng Ukraina Airplay vào ngày 28 tháng 2 năm 2011" (bằng tiếng Anh). Tophit. Truy cập 26 tháng 3 năm 2023.
  17. ^ “Ukrainian Top Year-End Radio Hits (2011)”. TopHit. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2023.
  18. ^ “Lady Gaga – 'Dance in the Dark' – Belgium iTunes”. iTunes Store. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2010.
  19. ^ 'Dance in the Dark', le nouveau single de Lady Gaga” ['Dance in the Dark', Lady Gaga's new single] (bằng tiếng Pháp). Universal Music France. 25 tháng 8 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2010.