Thiên Chúa

Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Khái niệm về một Đấng Tối cao hay Thượng đế là đa dạng, với các tên gọi khác nhau phụ thuộc vào cách nhìn nhận của con người về vị thần này, từ Brahma (Đại Ngã) của Ấn Độ giáo, Waheguru của Sikh giáo, Jah của phong trào Rastafari, cho đến Giavê của Do Thái giáo, Allah của Hồi giáo, và Thiên Chúa Ba Ngôi của Kitô giáo. Tóm lại, hầu như có bao nhiêu tôn giáo là có bấy nhiêu cách giải thích về sự hiện hữu, bản thể và các thuộc tính của thực thể tối thượng này. Tuy nhiên, ở đây chỉ đề cập đến khái niệm về Thiên Chúa.

Sơ lược[sửa | sửa mã nguồn]

Ký họa danh hiệu Allah thế kỷ 17 theo Hồi Giáo.
Mô tả Thiên Chúa trong Kitô giáo trong Sự sáng tạo của Adam của Michelangelo.
Hình vẽ Brahma trong Ấn Độ giáo, khoảng năm 1700.

....Chúa ở khắp mọi nơi. Do Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng nên bất kỳ sản phẩm nào mà Ngài đã hoàn thành công việc sáng tạo ra nó đều đã là đại diện cho sự toàn hảo của Thiên chúa, nhưng Chúa vẫn cảm thấy và mong muốn nó tốt hơn, và cho phép đề xuất sự cải tiến. Điều này cũng đúng với sản phẩm "con người" và các sinh vật mà Chúa đã tạo dựng những tạo vật linh thiêng. Khái niệm về Thiên Chúa được nối kết với các nguyên tắc về hệ thống chân lý và nền đạo đức có giá trị tuyệt đối....

Thần học[sửa | sửa mã nguồn]

Hình vẽ Chúa thế kỷ 13. Com-pa trong bản vẽ này là một biểu tượng của hành động sáng tạo của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo ra vũ trụ theo các nguyên tắc hình học và hài hòa, do đó để tìm kiếm những nguyên tắc này là để tìm kiếm và thờ phụng Thiên Chúa.

....Thần học nghiên cứu các niềm tin tôn giáo. Nhà thần học tìm cách giảng giải hoặc hệ thống hóa các niềm tin....

Các khái niệm về Thiên Chúa[sửa | sửa mã nguồn]

Đức Chúa Cha, tranh vẽ khoảng năm 1510-17.

Do Thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Ba tôn giáo này tin rằng Thiên Chúa là đấng tự hữu, hằng hữu, là đấng tạo hóa và đấng tể trị toàn thể vũ trụ. Theo quan điểm này, những thuộc tính của Thiên Chúa là thánh khiết (tinh tuyền và tách biệt khỏi tội lỗi), công chính (công bình, ngay thẳng và chân thật trong mọi đoán xét), tể trị (không gì cản trở được ý chí của Chúa), toàn năng (không gì mà Chúa không thể làm được), toàn tri (không gì mà Chúa không biết), yêu thương, và hiện diện khắp mọi nơi.

Tranh vẽ Đức Chúa Cha ở trường học Ý thế kỷ 16

Quan điểm này miêu tả Thiên Chúa là vô hình và hữu hình, có thân vị, Ngài là nguồn của mọi nghĩa vụ đạo đức, và là thực thể tối cao con người có thể nhận biết được.[1] Trong các mức độ khác nhau, những thuộc tính này được trình bày bởi các học giả tiên khởi của Do Thái giáo, Ki-tô giáoHồi giáo, trong đó có Augustine,[2] Al-Ghazali,[3]Maimonides.[2]

Theo giáo lý của hầu hết các giáo hội thuộc cộng đồng Cơ Đốc giáo,[4][5] Thiên Chúa là duy nhất, hiện hữu trong ba ngôi vị: Chúa Cha, Chúa ConChúa Thánh Thần (còn gọi là Chúa Thánh Linh).

Kinh Thánh[sửa | sửa mã nguồn]

Kinh Thánh Híp-ri [Hebrew] của Do Thái giáo cũng là Cựu Ước của Ki-tô giáo miêu tả Thiên Chúa theo các thuộc tính sau: "Chúa là Thiên Chúa nhân từ, thương xót, chậm giận, dư dật ân huệ và thành thực, giữ lòng đến ngàn đời, tha thứ điều gian ác, sự vi phạm và tội lỗi, nhưng không kể kẻ có tội là vô tội, và nhân tội tổ phụ phạt đến con cháu trải ba bốn đời" (Exodus 34. 6-7).

Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa[sửa | sửa mã nguồn]

Chương đầu tiên của Kinh Thánh được dùng để ký thuật công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ.[6] Ngoài ngài không có sự hiện hữu. Thiên Chúa tạo nên mọi vật,[7] nhưng chỉ có ngài là đấng tự hữu.[8] Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ ex nihila, từ sự vô hình và trống không.[9] Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa dựng nên con người, và ban cho họ quyền cai quản mọi loài trên đất.[10] Kinh Thánh cũng miêu tả các thuộc tính của Thiên Chúa như toàn năng và toàn tri.

Cựu Ước thường nhắc đến danh hiệu Chúa toàn năng, và giải thích "không có điều gì khó quá cho Ngài." (Sáng 18: 14). Bởi vì Thiên Chúa là đấng tạo hóa, không có điều gì vượt quá năng lực của ngài, cũng không ai có đủ quyền năng để ngăn cản công việc tay ngài làm.[11]

Hai thuộc tính toàn năng và toàn tri[12] của Thiên Chúa, theo miêu tả của Kinh Thánh, liên quan mật thiết với nhau và là một phần trong quyền năng sáng tạo và bảo tồn vũ trụ.[13] Khi tỏ cho các môn đồ biết về sự quan phòng của Thiên Chúa, Chúa Giê-su nói: "Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi." (Lc 12, 7). Một chỗ khác trong Tân Ước khẳng định thuộc tính này của Thiên Chúa, "Chẳng có loài thọ tạo nào có thể che giấu được trước mặt Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng mà chúng ta phải khai trình." (Hêbrơ 4: 13).

Thiên Chúa là Đấng Cứu rỗi[sửa | sửa mã nguồn]

Trong Kinh Thánh, công cuộc sáng tạo và cứu rỗi liên quan mật thiết với nhau. Thiên Chúa dựng nên con người, yêu thương họ, và muốn ban cho họ sự sống đời đời. Theo Kinh Thánh, chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa xuất phát từ tình yêu của ngài,[14] Sứ đồ Gioan đã miêu tả "Thiên Chúa là tình yêu thương." (1 Gioan 4:8). Khi loài người bất tuân, sa ngã, và phạm tội, họ đã xúc phạm đức công chính của Thiên Chúa, và bị đặt dưới cơn thịnh nộ và sự đoán phạt của ngài. Vì Thiên Chúa là công chính, sự cứu rỗi phải thỏa mãn sự công bình của luật pháp. Sự chết của Chúa Giê-su trên cây thập tự để đền tội thay cho loài người, theo Kinh Thánh, là giải pháp trọn vẹn có thể đáp ứng cả tình yêu thương và đức công chính của Thiên Chúa.[13]

Tuy nhiên Kinh Thánh không miêu tả Thiên Chúa một cách có hệ thống, lại cung cấp những hình ảnh thi vị về mối tương giao giữa Chúa và con người. Theo nhà thánh kinh sử học Yehezkal Kaufmann, phát kiến nền tảng của môn thần học Kinh Thánh là trình bày một Thiên Chúa không chỉ quan tâm đến con người mà còn muốn biết con người có quan tâm đến Chúa hay không. Hầu hết đều tin rằng Kinh Thánh nên được xem là quan điểm của con người về Thiên Chúa, song nhà thần học Abraham Joshua Heschel miêu tả Thiên Chúa trong Kinh Thánh theo quan điểm anthropopathic, theo đó Kinh Thánh nên được đọc theo quan điểm của Thiên Chúa về con người chứ không phải quan điểm của con người về Thiên Chúa.

Tương tự, Tân Ước không cung cấp một nền thần học có hệ thống về Thiên Chúa, nhưng là một nền thần học tiềm ẩn khi dạy rằng Thiên Chúa trở thành người trong thân vị của Chúa Giê-su trong khi vẫn là Thiên Chúa cách trọn vẹn. Trong ý nghĩa này, Thiên Chúa trở nên một thực thể có thể nhìn thấy và chạm đến được, có thể phán dạy và hành động theo một cung cách mà con người dễ dàng cảm nhận trong khi vẫn duy trì phẩm cách siêu nhiên và vô hình của Chúa. Các khái niệm này là những bước triệt để tách rời khỏi các khái niệm về Thiên Chúa được tìm thấy trong Kinh thánh Híp-ri [Hebrew], dẫn đến việc xác lập học thuyết Ba Ngôi.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Swinburne, R.G. "God" in Honderich, Ted. (ed)The Oxford Companion to Philosophy, Oxford University Press, 1995.
  2. ^ a b Edwards, Paul. "God and the philosophers" in Honderich, Ted. (ed)The Oxford Companion to Philosophy, Oxford University Press, 1995.
  3. ^ Platinga, Alvin. "God, Arguments for the Existence of," Routledge Encyclopedia of Philosophy, Routledge, 2000.
  4. ^ Harris, Stephen L. (1985) Understanding the Bible Palo Alto: Mayfield.
  5. ^ Cross, F. L., ed. (2005) The Oxford Dictionary of the Christian Church New York: Oxford University Press.
  6. ^ "Ban đầu, Thiên Chúa dựng nên trời và đất." – Sáng thế ký 1: 1
  7. ^ "Chỉ một mình Chúa là Yaweh có một không hai; Chúa đã dựng nên các từng trời, và trời của các từng trời, cùng toàn cơ binh của chúng, đất và mọi vật trên đất, biển và muôn vật dưới biển; Chúa bảo tồn các vật ấy, và cơ binh của các từng trời đều thờ lạy Chúa." – Nehemiah 9: 6
  8. ^ "Thiên Chúa phán rằng: Ta là đấng tự hữu hằng hữu." – Xuất Ai Cập ký 3:14
  9. ^ Clark, Gordon H. (1960). Baker’s Dictionary of Theology. Baker Book House. tr. 239.
  10. ^ "Thiên Chúa dựng nên loài người giống như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Thiên Chúa; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. Thiên Chúa ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sinh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất." – Sáng thế ký 1: 27-28
  11. ^ "Ngài làm theo ý mình trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất; chẳng ai có thể cản tay Ngài và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy?" – Daniel 4:35
  12. ^ "từ trước vô cùng Ngài đã thông biết những việc đó." – Công vụ các Sứ đồ 15: 18
  13. ^ a b Clark, Gordon H. (1960). Baker’s Dictionary of Theology. Baker Book House. tr. 243.
  14. ^ "Vì Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời." – Phúc âm Giăng 3: 16

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]