Tô Lịch
Tô Lịch (chữ Hán:蘇瀝) là vị thần của sông Tô Lịch (Tô Lịch giang thần). Nhiều khi vị thần này được đồng nhất với thần Long Đỗ - tức vị thần của núi Long Đỗ (núi Nùng); cả hai đều được phong là Thành hoàng của đất Thăng Long xưa.
Nguồn gốc
[sửa | sửa mã nguồn]Hai chữ Tô Lịch lần đầu tiên được sử sách ghi chép là vào thế kỷ VI, trong các sách Lương thư, Trần thư của Trung Quốc, nói vắn tắt về sự kiện: Nam Việt đế Lý Bí cho đắp dựng một tòa thành bên một dòng sông xưa trên đất Hà Nội cổ (545), được gọi là "Tô Lịch giang thành" (Thành sông Tô Lịch).[1] Như vậy, lần đầu trong sử sách, Tô Lịch xuất hiện là danh xưng của một con sông. Tuy nhiên, tên con sông lại bắt nguồn từ một người, tên Tô Lịch, sống vào cuối thế kỷ thứ III, đầu thế kỷ thứ IV, về sau được tôn làm thần, phong lên tới chức Thành hoàng Thăng Long.
Trong cuốn sách Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên từ thế kỷ XIV, Tô Lịch lại được nhắc tới trong truyện "Bảo quốc Trấn linh Định bang Quốc đô Thành hoàng đại vương". Cuốn sách này dẫn theo những thư tịch cổ hơn là Báo cực truyện và Giao Châu ký, nhắc lại chuyện về Tô Lịch đại vương, như sau:
“ | Vương họ Tô, huý là Lịch, sinh thời từng làm quan ở Long Đỗ,[2] tiên tổ cư ngụ ở đó đã lâu đời, dựng làng bên bờ một con sông nhỏ. Gia đình của Vương lấy sự thanh bạch và hoà thuận, hiếu thảo làm trọng, ba đời cùng nhân nhượng mà ở chung với nhau, không chút riêng biệt.
Thời nhà Tấn đô hộ, triều đình xét những nhà có hiếu, gia đình Vương được khen. Gặp năm mất mùa đói kém, nhà Vương sẵn lòng cho dân vay thóc, triều đình lại ban khen, nhân đó, cho lấy hai chữ Tô Lịch làm tên làng.[3] |
” |
.
Một phiên bản của cuốn Lĩnh Nam chích quái cũng chép về người tên Tô Lịch: "Nước ta có người họ Tô tên Lịch xưa sống ở Long Đỗ, nay là mé ven sông, ba đời nhân nhượng mà sống chung với nhau. Đời Tấn được cử làm chức Hiếu liêm, cắm cờ ở trước cổng xóm, vì vậy người đời bèn gọi xóm ấy là xóm Tô Lịch".
Phong thần
[sửa | sửa mã nguồn]Năm Trường Khánh thứ hai (822) đời Đường Mục Tông,[4] Lý Nguyên Hỷ (hay Lý Nguyên Gia) lúc đấy là quan đô hộ giữ đất Long Biên, thấy ngoài cửa Bắc thành có dòng nước chảy ngược (nghịch thủy),[5] sợ dân chúng có lòng phản nghịch nên mới dời phủ trị tới bên bờ sông. Sau khi chuyển thành tới, Lý Nguyên Hỷ bèn mời các bậc phụ lão tới bàn bạc, rồi cho xây một ngôi đền lớn, tôn Tô Lịch làm Thần chủ của cả thành. Sách Việt điện u linh chép lại truyện trên, có đoạn là khi Lý Nguyên Hỷ xây xong đền, cho mở tiệc náo nhiệt, "trăm điệu múa đều có, đàn địch vang trời", thì tối hôm đó, Tô Lịch đã hiện lên trong giấc mộng:
“ | ...Đêm ấy, Nguyên Hỷ đang yên lặng nằm bên cửa sổ, bỗng nhiên một trận thanh phong vùn vụt đến, bụi cuốn cát bay, rèm lay án động. Rồi thấy có một người cưỡi một con nai trắng từ trên không hạ xuống, râu mày bạc phơ, áo mão thì rành rạnh, lần đến bảo Nguyên Hỷ rằng:
- Nhờ ơn sứ quân uỷ cho ta làm chủ thành này, nếu sứ quân có giáo hóa được cư dân trong thành cho hết lòng hết sức thẳng ngay, thì mới sung được nhiệm vụ của quan thủ mục, mới xứng với trách nhiệm của một bậc tuần lương. Nguyên Hỷ bái tạ xin vâng, nhưng hỏi đến họ tên thì không đáp. Bỗng nhiên tỉnh dậy mới hay đó là mộng.[6] |
” |
Đến khi Cao Biền xây thành Đại La (866), vị thần này lại xuất hiện thêm lần nữa. Sách Lĩnh Nam chích quái cũng chép truyện sông Tô Lịch, tuy nhiên trong đó lại đồng hóa hai vị thần Tô Lịch và Long Đỗ. Trong sách này, khi chơi trên con sông quanh thành Đại La, Biền gặp vị thần tự xưng là Tô Lịch, nên mới đặt tên sông là Tô Lịch. Sách viết:
“ | ...[Cao] Biền thông hiểu thiên văn địa lý, xem hình thế đất mà xây thành Đại La ở phía tây Lô Giang, chu vi 30 dặm để ở. Có dòng sông con từ Lô Giang chảy vào phía Tây Bắc, cuốn quanh phía nam, ôm lấy thành Đại La rồi lại nhập vào sông cái. Hồi đó đang giữa tháng sáu nước mưa lên cao: Biền cưỡi thuyền nhẹ thuận dòng vào tiểu giang đi khoảng một dặm, bỗng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, dung mạo dị kỳ, tắm ở giữa dòng sông, cười nói tự nhiên. Biền hỏi họ tên. Đáp: ta họ Tô tên Lịch. Biền lại hỏi: Nhà ở đâu? Đáp: Nhà ở trong sông này. Dứt lời, lấy tay đập nước bắn tung mù mịt, bỗng nhiên không thấy đâu nữa. Biền biết là thần, bèn đặt tên sông là Tô Lịch.
Một buổi sớm khác, Biền ra đứng ở bờ sông Lô Giang, phía đông thành Đại La, thấy trận gió lớn nổi lên, sóng nước cuồn cuộn, mây trời mù mịt, có một dị nhân đứng trên mặt nước, cao hơn hai trượng, mình mặc áo vàng, đầu đội mũ tím, tay cầm hốt vàng rực rỡ một khoảng trời, chập chờn lên xuống trên khoảng không. Mặt trời cao ba con sào, khí mây hãy còn mù mịt, Biền rất kinh dị, muốn yểm thần. Đêm nằm mộng thấy thần nhân tới nói rằng: "Chớ yểm ta, ta là tinh ở Long Đỗ, đứng đầu các địa linh,[7] ông xây thành ở đây, ta chưa được gặp, cho nên tới xem đó thôi, ta có sợ gì bùa phép?" Biền kinh hãi. Sáng hôm sau, Biền lập đàn niệm chú, lấy kim đồng thiết phù để yểm. Đến hôm ấy, sấm động ầm ầm, gió mưa dậm dật, đất trời u ám, thần tướng hò reo, kinh thiên động địa. Trong khoảnh khắc, kim đồng thiết phù bật ra khỏi đất, biến thành tro, bay tan trên không. Biền càng kinh hãi, than rằng: "Xứ này có thần linh dị, ở lâu tất chuốc lấy tai vạ". Sau Ý Tông triệu Biền về, quả nhiên Biền bị giết và Cao Tầm được cử sang thay. |
” |
Sách Việt điện u linh không chép lại chuyện này, chỉ ghi rằng: "Kịp đến lúc Cao Biền xây thành Đại La, nghe Vương linh dị, lập tức đem lễ điện tế bái chức Đô phủ Thành hoàng Thần quân".
Khi Lý Thái Tổ dời đô (1010), thường nằm mơ thấy một ông lão râu bạch, đến bên bệ rồng, hô vạn tuế, chúc mừng nhà vua. Vua cười hỏi: "Tôn thần cũng giữ được hương lửa trăm năm hay sao?". Ông liền đáp: "Mong muốn hoàng đồ như Thái Sơn bàn thạch, thánh thọ vô cương, trong triều ngoài quận thái hòa, bọn thần không chỉ hương hỏa một trăm năm mà thôi".
Sau khi tỉnh dậy, bèn sai quan Thái chúc đem rượu tế, phong thần làm Quốc đô Thăng Long Thành hoàng Đại vương.
Đến niên hiệu Trùng Hưng năm đầu (1285), Trần Nhân Tông sắc phong cho thần Tô Lịch hai chữ "Bảo quốc"; năm Trùng Hưng thứ tư (1288), lại gia phong thêm hai chữ "Hiển linh". Năm Hưng Long thứ 21 (1313), Tô Lịch được phong thêm hai chữ "Định bang" nữa.
Thờ phụng
[sửa | sửa mã nguồn]Do nhiều khi bị đồng hóa với thần Long Đỗ, nên theo Từ điển bách khoa Việt Nam, nơi thờ chính của thần sông Tô Lịch là ở đền Bạch Mã, trấn Đông trong Thăng Long tứ trấn.
Tuy nhiên cũng có nơi như đình Tân Khai, thờ riêng cả hai vị thần Bạch Mã (Long Đỗ) và Tô Lịch.[8]
Ngoài ra còn có hội Đình Gừng (tên nôm làng Khương Hạ, nay thuộc phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội) thờ thần Tô Lịch và Lê Dương Vệ, tổ chức vào 12 tháng 2 âm lịch hàng năm.
Đình Liên Ngạc (phường Đông Ngạc, Bắc Từ Liêm, Hà Nội) thờ thần Tô Lịch cùng Tháp Nương công chúa, 12/2 ÂL hằng năm rước nước, rước kiệu ra giữa sông Hồng lấy nước về thờ, 13/2 ÂL chính hội.
Làng Thuần Lương (tên Nôm: Làng Ngói), xã Hùng Thắng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương là ngôi làng duy nhất ở ngoài Thăng Long - Hà Nội ở giữa tam giác châu thổ sông Hồng thờ nhân vật lịch sử Tô Lịch làm Thần thành hoàng làng.[cần dẫn nguồn]
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Vũ Khiêu (2004 - chủ biên), Danh nhân Hà Nội, Nhà xuất bản Hà Nội, tr. 668-671
- ^ Long Đỗ (Độ): tên gọi để chỉ chung miền đất Long Thành - Hà Thành, tức nội đô - nội thành Thăng Long - Hà Nội. Tên gọi này bắt nguồn từ tên của núi Long Đỗ (Độ), tức núi Nùng, ngọn núi linh thiêng nằm ở trung tâm của thành cổ Hà Nội.
- ^ Trích theo Nguyễn Khắc Thuần, "Việt sử giai thoại", Nhà xuất bản Giáo dục. Bản trực tuyến truy cập 2008-12-07.
- ^ Chuyện dời thành của Lý Nguyên Gia, sách Cương mục, dẫn theo An Nam kỷ yếu, ghi là năm Trường Khánh thứ 4 (824).
- ^ Tức nước sông Tô chảy vào sông Hồng, trên thực tế là do vào mùa mưa, nước từ đồng đổ vào sông Tô, khiến mặt nước sông Tô cao hơn sông Hồng.
- ^ Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh tập. Dựa theo bản dịch của Ngọc Hồ, Nhất Tâm (1992), Nhà xuất bản Cửu Long, tr. 104-105
- ^ Về quan hệ giữa thần Long Đỗ và thần Tô Lịch, xem bài Long Đỗ.
- ^ Nguyễn Thị Thanh, "Các vị thần thờ trong Đình Tân Khai[liên kết hỏng]", trang quận Hoàn Kiếm. Truy cập 2008-12-07.