Bước tới nội dung

Đàm Luân

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đàm Luân
譚綸
Tên chữTử Lý
Tên hiệuNhị Hoa
Thụy hiệuTương Mẫn
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
4 tháng 8, 1520
Nơi sinh
Nghi Hoàng
Quê quán
huyện Nghi Hoàng
Mất
Thụy hiệu
Tương Mẫn
Ngày mất
1577
Nơi mất
Bắc Kinh
Giới tínhnam
Gia quyến
Thân phụ
Đàm Hạo
Thân mẫu
Luo Shi
Phối ngẫu
Rao Shi
Học vấnTiến sĩ Nho học
Chức quanthái tử thái bảo
Nghề nghiệpchính khách
Quốc tịchnhà Minh

Đàm Luân (chữ Hán: 譚綸, 4 tháng 8 năm 151920 tháng 4 năm 1577)[1], tự Tử Lý, người huyện Nghi Hoàng [2], xuất thân Tiến sĩ, tướng lãnh nhà Minh, có công đánh dẹp Uy khấu, tề danh với danh tướng Thích Kế Quang, được gọi là “Đàm, Thích”. Đương thời danh tướng nhà Minh ngoài Đàm Luân còn có Thích Kế Quang, Du Đại Du, Lưu HiểnLý Thành Lương, ông nổi trội hơn cả ở tài luyện binh.

Đánh dẹp Uy khấu, an định miền nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Gia Tĩnh thứ 23 (1544), Luân đỗ Tiến sĩ, được trừ chức Nam Kinh Lễ bộ chủ sự, trải qua chức vụ Chức Phương lang trung, thăng Đài Châu tri phủ. Luân tính trầm nghị, hiểu việc binh. Bấy giờ Đông Nam có nạn Uy khấu đã 4 năm, triều đình bàn bạc việc huấn luyện hương binh chống giặc. Tham tướng Thích Kế Quang xin hẹn 3 năm thì có thể dùng binh, Luân cũng huấn luyện ngàn người, lập ra phép Thúc ngũ [3], từ bì tướng trở xuống chịu tiết chế theo cấp bậc. Sau khi đội quân này được chia đếm rõ ràng, tiến dừng như một, không lâu sau đã trở nên tinh nhuệ. Uy khấu xâm phạm Sách Phổ, Luân tự làm tướng đi đánh, 3 trận thắng cả 3. Uy khấu lại từ Tùng Môn, Thiền Hồ cướp bóc 6 huyện bên cạnh, tiến vây Đài Châu, không hạ được bỏ đi; chuyển sang cướp bóc Tiên Cư, Lâm Hải. Luân bắt chém bằng sạch, được tiến làm Hải đạo phó sứ. Luân mộ thêm con nhà tử tế ở Chiết Đông để dạy dỗ họ, thì Thích Kế Quang đã luyện binh đúng kỳ hẹn, nên Luân nhân đó thu dùng họ và bỏ những binh khách không chịu tuân theo sự điều động. Uy khấu từ Tượng Sơn chợt đến Đài Châu, Luân liên tiếp phá địch ở Mã Cương, Hà Gia Thạch Lãm, lại cùng Kế Quang phá địch ở Cát Phụ, Nam Loan. Luân được gia chức Hữu tham chánh, gặp lúc có tang nên rời chức; nhờ thượng thư Dương Bác tiến cử nên được khởi dùng, lại nắm binh sĩ Chiết Giang, tham gia đánh dẹp nghĩa quân của người Nhiêu BìnhLâm Triều Hi. Triều Hi tấn công Trình Hương. Vũ Bình tri huyền Từ Phủ Tể cố thủ rồi tìm cách ly gián nghĩa quân. Triều Hi sợ hãi bỏ chạy, Luân cùng quân đội Quảng Đông đuổi theo, bắt được. Sau đó Luân được đổi làm quan ở Phúc Kiến, xin tiếp tục chịu tang nên rời chức.

Thích Kế Quang đã quét sạch Chiết Đông, Uy khấu chuyển vào Phúc Kiến. Từ Phúc Ninh Phủ [4] đến Chương, Tuyền, ngàn dặm bị bọn chúng xới lên, Thích gia quân dần dẹp yên được. Nhưng họ lui về, Uy khấu lại xâm phạm Thiệu Vũ, chiếm Hưng Hóa [5]. Mùa xuân năm thứ 42 (1563), Luân được triều đình tái khởi dùng, cất nhắc làm Hữu thiêm đô ngự sử, tuần phủ Phúc Kiến. Uy khấu đồn trú thành Khi Đầu, đô chỉ huy Âu Dương Thâm trúng mai phục mà chết; Uy khấu thừa thắng chiếm cứ Bình Hải Vệ, lấy mất Chánh Hòa, Thọ Ninh, chẹn các lối ra biển làm kế quay về. Luân dựng công sự chẹn đường, Uy khấu không thể đi tiếp, dời doanh trại đến Chử Lâm. Sau khi Thích Kế Quang đến, Luân tự mình nắm Trung quân, điều động các Tổng binh quan Lưu Hiển, Du Đại Du nắm 2 cánh quân tả, hữu; lệnh cho Kế Quang đem trung quân xông vào lũy địch, 2 cánh tả, hữu theo sau. Quân Minh đại phá Uy khấu, giành lại 1 phủ, 2 huyện. Có chiếu gia cho Luân chức Hữu phó đô ngự sử. Luân cho rằng khu vực Duyên, Kiến, Đinh, Thiệu bị tàn phá rất nặng, xin hoãn thu thuế. Luân lại khảo xét cựu chế, dựng 5 thủy trại, chẹn hải khẩu, tiến cử Kế Quang làm Tổng binh quan để trấn thủ. Uy khấu lại vây Tiên Du, Luân, Kế Quang đại phá địch dưới thành. Sau đó Thích gia quân phá Uy khấu ở Vương Thương Bình, Thái Phi Lĩnh, tàn dư bọn cướp bỏ chạy, khu vực Quảng Đông đều an định. Luân dâng sớ xin trở về chịu tang, Minh Thế Tông đồng ý.

Mùa đông năm thứ 44 (1565), Luân được khởi dùng chức quan cũ, làm tuần phủ Thiểm Tây, chưa đến nhận chức thì dân ở Đại Túc nổi dậy, chiếm 7 thành. Có chiếu đổi Luân nhận chức ở Tứ Xuyên, đến nơi thì nghĩa quân đã bị dẹp. Thổ tù Phượng Kế Tổ ở Vân Nam nổi dậy, thua chạy vào Hội Lý, Luân hội sư đánh dẹp được. Được tiến làm Binh bộ Hữu thị lang kiêm Hữu thiêm đô ngự sử, tổng đốc Lưỡng Quảng quân vụ kiêm Tuần phủ Quảng Tây. Luân chiêu hàng được nghĩa quân Lĩnh Cương là bọn Giang Nguyệt Chiếu.

Đại tu biên phòng, bảo vệ miền bắc

[sửa | sửa mã nguồn]

Luân lão luyện việc binh, triều đình dựa vào ông để đánh dẹp, nơi nào có chiến sự lập tức được điều đến, ở chức không khi nào đầy năm. Đến nay giặc giã ở phương nam đã định, nhưng nỗi lo vùng biên chưa thôi. Năm Long Khánh đầu tiên (1567), cấp sự trung Ngô Thì Lai xin triệu Luân, Kế Quang luyện binh. Có chiếu chinh Luân về bộ, tiến làm Tả thị lang kiêm Hữu thiêm đô ngự sử, tổng đốc Kế, Liêu, Bảo Định quân vụ. Luân dâng sớ rằng:

Có chiếu đáp ứng mọi điều trong sớ, còn lệnh cho Luân, Kế Quang bàn bạc việc chia lập 3 doanh. Luân nhân đó nói: “Kế Trấn luyện binh đã 10 năm, nhưng không có hiệu quả, là bởi dùng mà không chuyên, làm mà không đến. Nay nên giao trách nhiệm cho thần Luân, Kế Quang, được phép chuyên quyết, chớ để tuần án, tuần quan ngự sử tham dự vào giữa chừng.” Một khi việc binh bắt đầu, quan viên biên phòng sẽ bị dư luận dẫn dắt, không thể làm việc, nên Luân mới nói trước như vậy! Quả nhiên tuần phủ Lưu Ứng Tiết dị nghị, tuần án ngự sử Lưu Tùy, tuần quan ngự sử Tôn Đại Hựu hặc Luân tự chuyên. Minh Mục Tông nghe theo Trương Cư Chánh, đem hết việc binh ủy thác cho Luân, rồi dụ bọn Ứng Tiết không được cản trở.

Luân xem xét mức độ hiểm yếu của các biên ải, đường sá xa gần, chia Kế Trấn làm 12 lộ, mỗi lộ 1 viên tiểu tướng; tổng cộng lập 3 doanh: Đông ở Kiến Xương, phòng bị Yên Hà về phía đông, Trung ở Tam Đồn phòng bị Mã Lan, Tùng, Thái, Tây ở Thạch Hạp phòng bị Tào Tường, Cổ Thạch. Chư tướng theo mùa huấn luyện, hỗ trợ lẫn nhau, mệnh lệnh rõ ràng. Mùa thu năm ấy, Kế, Xương không có cảnh báo. Khác với khi xưa phải điều binh Thiểm Tây, Hà Gian, Chánh Định đến phòng bị mùa thu, đến đây thì bãi bỏ. Luân mới đến, tuần hành biên tái, nói với tướng tá rằng: “Mạt mã lệ binh (cho ngựa ăn, mài đồ binh), ganh nhau được thua từng hơi thở, thích hợp với phương nam; kiên bích thanh dã (tường chắc, đồng trống), ngồi đợi chế ngự kẻ xâm nhập, thích hợp với phương bắc.” Rồi cùng Kế Quang tính toán phương lược, đắp 3000 Ngự địch đài, từ Cư Dung đến Sơn Hải, khống chế yếu hại. Luân được triệu về làm Hữu đô ngự sử kiêm Binh bộ tả thị lang, Hiệp lý nhung chánh (tức là hiệp trợ xử lý quân sự). Đến lúc đài xây xong, Luân mộ thêm hơn 9000 binh Chiết để giữ. Biên phòng được đại tu, địch không dám xâm phạm; Luân nhờ công được tiến làm Binh bộ thượng thư kiêm Hữu đô ngự sử, Hiệp lý như cũ. Mùa đông năm ấy, Luân xin về hưu.

Qua đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Minh Thần Tông lên ngôi, Luân được khởi làm Binh bộ Thượng thư. Đầu niên hiệu Vạn Lịch, Luân được gia hàm Thái tử Thiếu bảo. Cấp sự trung Lạc Tuân hặc Luân không xứng chức. Luân 3 lần dâng sớ xin bãi chức, Hoàng đế giáng chiếu an ủi giữ ông lại. Năm thứ 5 (1577), Luân mất khi đang ở chức, được tặng Thái tử Thái bảo, thụy là Tương Mẫn.

Luân trước sau tham gia việc binh gần 30 năm, lấy được cả thảy 21500 thủ cấp. Luân từng chiến đấu say sưa, máu chảy từ binh khí thấm đẫm cổ tay, rửa mãi mới sạch.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Minh sử quyển 222, liệt truyện 110 – Đàm Luân truyện

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ 手录《兵部尚书谭纶神道碑》_客舟听雨_新浪博客
  2. ^ Nay là huyện Nghi Hoàng, địa cấp thị Phủ Châu, tỉnh Giang Tây
  3. ^ Nguyên văn: 束伍, (Thúc: Buộc, bó lại; Ngũ: Năm, tên số đếm), là phép trị quân (ước thúc binh sĩ). Úy Liễu tử - Thúc ngũ lệnh: “Lệnh Thúc ngũ nói rằng: 5 người làm 1 ngũ, dùng chung 1 thẻ, nộp ở chỗ tướng lại.
  4. ^ Phúc Ninh đời Minh bao gồm các huyện Hà Phố, Phúc An, Ninh Đức, Phúc Đỉnh
  5. ^ Phủ Hưng Hóa đời Minh vốn có 3 huyện Phủ Điền, Tiên Du, Hưng Hóa. Đến năm 1448, huyện Hưng Hóa bị phế, đất đai được chia cho 2 huyện còn lại, nhiều tài liệu vẫn quen dùng tên gọi Hưng Hóa cho huyện Phủ Điền
  6. ^ Đời Minh – Thanh, cứ 3 đinh gọi là 1 标 (tiêu/phiêu). Tiêu binh là lực lượng dân quân tại địa phương, hằng năm đều có đợt thao luyện tập trung
  7. ^ Nay là Chính Định, huyện Chân Định đổi tên là Chính Định từ đời Thanh, nhằm kiêng húy của Ung Chính đế