Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Văn Cẩm”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 12: Dòng 12:
| chỉ huy= Quân đội Quốc gia Việt nam<br>Quân lực Việt Nam Cộng hòa
| chỉ huy= Quân đội Quốc gia Việt nam<br>Quân lực Việt Nam Cộng hòa
}}
}}
|
'''Trần Văn Cẩm''' (1930), nguyên là một tướng lĩnh gốc Pháo binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], mang quân hàm [[Chuẩn tướng]]. Ông xuất thân từ khoá đầu tiên ở trường Võ bị Địa phương Trung Việt, sau đó ông học tiếp ở trường Võ bị Liên quân. Ra trường ông chọn ngành Pháo binh và đã phục vụ ở ngành chuyên môn này một thời gian dài. Sau này, ông được chuyển sang bộ binh ở lĩnh vực Chỉ huy và Tham mưu.
'''Trần Văn Cẩm''' (1930), nguyên là một tướng lĩnh gốc Pháo binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], mang quân hàm [[Chuẩn tướng]]. Ông xuất thân từ khoá đầu tiên ở trường Võ bị Địa phương Trung Việt, sau đó ông học tiếp ở trường Võ bị Liên quân. Ra trường ông chọn ngành Pháo binh và đã phục vụ ở ngành chuyên môn này một thời gian dài. Sau này, ông được chuyển sang bộ binh ở lĩnh vực Chỉ huy và Tham mưu.
==Tiểu sử & Binh nghiệp==
==Tiểu sử & Binh nghiệp==

Phiên bản lúc 23:29, ngày 29 tháng 11 năm 2015

Trần Văn Cẩm
Sinh15-1-1930
Quảng Trị
Thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1950-1975
Quân hàm Chuẩn tướng
Đơn vịBinh chủng Pháo binh
Sư đoàn 2 Bộ binh
Sư đoàn 2 Bộ binh
Sư đoàn 23 Bộ binh
Quân đoàn II
Chỉ huyQuân đội Quốc gia Việt nam
Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Trần Văn Cẩm (1930), nguyên là một tướng lĩnh gốc Pháo binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang quân hàm Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ khoá đầu tiên ở trường Võ bị Địa phương Trung Việt, sau đó ông học tiếp ở trường Võ bị Liên quân. Ra trường ông chọn ngành Pháo binh và đã phục vụ ở ngành chuyên môn này một thời gian dài. Sau này, ông được chuyển sang bộ binh ở lĩnh vực Chỉ huy và Tham mưu.

Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh ngày 15-1-1930 trong một gia đình nho giáo tại Làng Quảng Lượng, Huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, Trung phần Việt Nam. Là con cụ Trần Văn Tường và cụ Phạm Thị Dẩm. Ông có người em trai là Trần Văn Hãn nhập ngũ vào Quân chủng Hải quân Việt Nam Cộng hoà, cấp bậc sau cùng là Hải quân Trung tá.

Thời niên thiếu, ông học ở trường Quốc học Khải Định, Huế. Tốt nghiệp Trung học Đệ nhất cấp chương trình Pháp với văn bằng Thành chung.

Năm 1950: Thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 50/201.745. Theo học khóa 1 Trường Võ bị Địa phương Trung Việt* (Đập Đá, Huế) (khai giảng ngày 1/8/1950, mãn khoá ngày 1/4/1951). Ông tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy và được chọn ở lại trường làm Huấn luyện viên.

* Năm 1950, Chính phủ Quốc gia Việt Nam thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Được Chính phủ và Quân đội bảo hộ của Pháp hỗ trợ thành lập ở mỗi Phần một trường huấn luyện sĩ quan được gọi là trường Võ bị Địa phương nhằm mục đích đào tạo sĩ quan người Việt để phục Quân đội Liên hiệp Pháp. Ở Trung phần có trường Võ bị Địa phương Trung Việt cơ sở tại địa danh Đập Đá trên bờ sông Hương, Huế (địa điểm trước đó là trường Võ bị Liên quân, thường gọi là "Võ bị Huế", đã huấn luyện được 2 khóa, đến khóa 3 trường dời về Đà Lạt). Ở Nam phần có trường Võ bị Địa phương Nam Việt đặt cơ sở tại Vũng Tàu.

Đầu tháng 7 năm 1951, ông xin theo học khóa 5 Hoàng Diệu trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (khai giảng ngày 1/7/1951, mãn khóa ngày 24/4/1952). Tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường, ông được chọn về ngành Pháo binh và được cử đi học khóa căn bản binh chủng tại trường Pháo binh Phú Lợi, Thủ Dầu Một. Tháng 11 cùng năm, ông luân phiên đảm nhận chức Tiền sát viên và chức Trung đội trưởng. Qua đầu tháng 11 năm 1953, ông được cử giữ chức Pháo đội trưởng.

Quân đội Việt Nam Cộng hoà

Tháng 5 năm 1955, chuyển sang phục vụ Quân lực Việt Nam Cộng hoà, ông được cử đi du học khóa sĩ quan Pháo binh cao cấp tại trường Pháo binh Chalon-sur-Marne, Pháp trong thời gian 3 tháng. Qua tháng 8 mãn khóa về nước, ông được thăng cấp Đại úy giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 Pháo binh thay thế Thiếu tá Nguyễn Đức Thắng.

Tháng 5 năm 1959, ông được lệnh bàn giao chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 Pháo binh lại cho Đại úy Lê Văn Thân để đi du học khoá Pháo binh cao cấp tại Trường Pháo binh Fort Still, Oklahoma, Hoa Kỳ trong thời gian 6 tháng. Tháng 11 mãn khoá về nước, ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Pháo binh Sư đoàn 1 bộ binh tân lập.

Năm 1963: Sau cuộc đảo chính Tông thống Ngô Đình Diệm. Ngày 2/11 ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm. Qua đầu tháng 5 năm 1964, nhận lệnh bàn giao Bộ chỉ huy Pháo binh Sư đoàn 1 lại cho Đại úy Nguyễn Tiến Lộc. Ngay sau đó ông đi nhận chức Chỉ huy trưởng Pháo binh Quân đoàn I.

Tháng 5 năm 1965, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm và được lệnh bàn giao Bộ chỉ huy Pháo binh Quân đoàn I lại cho Thiếu tá Phạm Cao Đông. Cuối tháng này ông được cử đi du học khoá Chỉ huy & Tham mưu tại Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ với thời gian 6 tháng. Qua năm 1966, ông được tiếp tục theo học thêm 3 tháng lớp chống Chiến tranh Du kích tại Trường Fort Bragg, North Carolina, Hoa Kỳ. Tháng 6 cùng năm, mãn khoá về nước ông được cử giữ chức Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 bộ binh thay thế Trung tá Tôn Thất Khiên.

Ngày 19/6 năm 1968, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Đến tháng 9 nhận lệnh bàn giao chức Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 lại cho Đại tá Phạm Cao Đông. Cuối tháng này, ông được cử làm phụ tá hành quân cho Trung tướng Hoàng Xuân Lãm Tư lệnh Quân đoàn I và Vùng 1 chiến thuật.

Tháng 5 năm 1970, ông được thuyên chuyển sang Sư đoàn 2 bộ binh nhận chức Tham mưu trưởng thay thế Trung tá Ngô Văn Lợi được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Quảng Ngãi.

Qua tháng 5 năm 1972, ông được lệnh bàn giao chức Tham mưu trưởng Sư đoàn 2 lại cho Trung tá Lê Tấn Phước. Cuối tháng này, ông được điều về Bộ tư lệnh Quân đoàn II để nhận chức Tham mưu trưởng thay thế Đại tá Lê Quang Bình. Tháng 10 cùng năm, bàn giao chức Tham mưu trưởng lại cho Đại tá Lê Trung Tường. Cùng tháng, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh thay thế Chuẩn tướng Lý Tòng Bá đi làm Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Thiết giáp Trung ương. Ngày 1/11 cùng năm, ông được đặc cách vinh thăng cấp Chuẩn tướng tại mặt trận.

Hạ tuần tháng 11 năm 1973, ông được tái nhiệm chức Tham mưu trưởng Quân đoàn II sau khi hoán chuyển nhiệm vụ với Đại tá Lê Trung Tường về làm Tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh. Cuối năm 1974, ông được lệnh bàn giao chức Tham mưu trưởng Quân đoàn lại cho Đại tá Lê Khắc Lý.

1975

Đầu tháng giêng, ông nhận chức phụ tá Hành quân cho Tư lệnh Quân đoàn II do Thiếu tướng Phạm Văn Phú làm Tư lệnh. Ngày 16/3, giám sát cuộc hành quân di tản triệt thoái của Quân đoàn II rời khỏi Pleiku trên tỉnh lộ 7B.

Ngày 1/4/75, ông bị địch quân bắt làm tù binh tại mặt trận Tuy Hoà, Phú Yên và bị đưa đi tù cải tạo lần lượt qua các trại giam ở miền Bắc: Yên Bái, Hà Tây và Nam Hà cho tới ngày 13/2/1988 mới được trả tự do.

Cuối tháng 8 năm 1991, ông cùng gia đình được phép xuất cảnh theo diện H.O do Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh và định cư tại San-Antonio, Texas, Hoa Kỳ.

Gia đình

  • Phu nhân: Bà Trần Thị Bạch Yến (Ông bà có 9 người con gồm 5 trai, 4 gái).

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hoà. Hương Quê. ISBN 978-0-9852-1820-1.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)