Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bayinnaung”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TRMC (thảo luận | đóng góp)
TRMC (thảo luận | đóng góp)
Dòng 41: Dòng 41:
Vị vua tương lại được sinh ra với cái tên Ye Htut ({{my|ရဲထွတ်}}, {{IPA-my|jɛ́ tʰʊʔ|IPA}}) vào ngày 16 tháng 1 năm 1516. Ông là con của [[Mingyi Swe]] và [[Shin Myo Myat]]. Không có nhiều điều được biết đến về tổ tiên của ông. Không có bất cứ tài liệu đương thời nào đề cập đến tổ tiên của ông, kế cả cuốn biên niên sử đồ sộ [[Hanthawaddy Hsinbyushin Ayedawbon]] viết về triều đại của ông được viết hai năm trước khi ông mất.<ref name=utk-102-103>Thaw Kaung 2010: 102–103</ref> Chỉ đến năm 1724, tức là 143 năm sau khi nhà vua băng hà, cuốn biên niên sử chính thức ''[[Maha Yazawin]]'' của triều Toungoo mới lần đầu tiên đề cập đến gia phả của ông. Theo cuốn Maha Yazawin, ông được sinh ra trong một gia đình quý tộc ở Toungoo (Taungoo), lúc bấy giờ vốn là chư hầu của triều Ava. Ông là hậu duệ của Phó vương xứ Taungoo [[Tarabya của Toungoo|Tarabya]] (cai trị từ 1440-1446) và [[Minkhaung I của Toungoo|Minkhaung I]] (cai trị 1446-1451) theo bên nội và là hậu duệ của vua [[Thihathu|Thihathu xứ Pinya]] (cai trị 1310-1325) cùng hoàng hậu Mi Saw U theo bên ngoại.<ref name=utk-118-119>Thaw Kaung 2010: 118–119</ref> Ngoài ra, Ye Htut còn là họ hàng xa của [[Mingyinyo|Mingyi Nyo]], nhà cai trị xứ Toungoo lúc bấy giờ, và con trai ông ta [[Tabinshwehti]] thông qua tổ tiên chung là Tarabya xứ Pakhan.<ref group=note>(Hmannan Vol. 2 2003: 171): Mingyi Nyo's maternal grandmother Min Hla Htut, Princess of Pyakaung, was a daughter of Minye Kyawswa and Saw Min Hla, daughter of Tarabya of Pakhan.</ref> Các tại liệu đời sau đều gần như ghi chép y hệt cuốn ''Maha Yazawin''.<ref name=utk-102-103/> Nói chung, mọi cuốn biên niên sử đều chỉ ra sự liên kết giữa ông và tất cả các triều đại đã từng tồn tại ở vùng Thượng Miến Điện như triều [[Vương quốc Ava|Ava]], [[Vương quốc Sagaing|Sagaing]], [[Vương quốc Myinsaing|Myinsaing]]-[[Vương quốc Pinya|Pinya]] và [[Vương quốc Pagan|Pagan]].
Vị vua tương lại được sinh ra với cái tên Ye Htut ({{my|ရဲထွတ်}}, {{IPA-my|jɛ́ tʰʊʔ|IPA}}) vào ngày 16 tháng 1 năm 1516. Ông là con của [[Mingyi Swe]] và [[Shin Myo Myat]]. Không có nhiều điều được biết đến về tổ tiên của ông. Không có bất cứ tài liệu đương thời nào đề cập đến tổ tiên của ông, kế cả cuốn biên niên sử đồ sộ [[Hanthawaddy Hsinbyushin Ayedawbon]] viết về triều đại của ông được viết hai năm trước khi ông mất.<ref name=utk-102-103>Thaw Kaung 2010: 102–103</ref> Chỉ đến năm 1724, tức là 143 năm sau khi nhà vua băng hà, cuốn biên niên sử chính thức ''[[Maha Yazawin]]'' của triều Toungoo mới lần đầu tiên đề cập đến gia phả của ông. Theo cuốn Maha Yazawin, ông được sinh ra trong một gia đình quý tộc ở Toungoo (Taungoo), lúc bấy giờ vốn là chư hầu của triều Ava. Ông là hậu duệ của Phó vương xứ Taungoo [[Tarabya của Toungoo|Tarabya]] (cai trị từ 1440-1446) và [[Minkhaung I của Toungoo|Minkhaung I]] (cai trị 1446-1451) theo bên nội và là hậu duệ của vua [[Thihathu|Thihathu xứ Pinya]] (cai trị 1310-1325) cùng hoàng hậu Mi Saw U theo bên ngoại.<ref name=utk-118-119>Thaw Kaung 2010: 118–119</ref> Ngoài ra, Ye Htut còn là họ hàng xa của [[Mingyinyo|Mingyi Nyo]], nhà cai trị xứ Toungoo lúc bấy giờ, và con trai ông ta [[Tabinshwehti]] thông qua tổ tiên chung là Tarabya xứ Pakhan.<ref group=note>(Hmannan Vol. 2 2003: 171): Mingyi Nyo's maternal grandmother Min Hla Htut, Princess of Pyakaung, was a daughter of Minye Kyawswa and Saw Min Hla, daughter of Tarabya of Pakhan.</ref> Các tại liệu đời sau đều gần như ghi chép y hệt cuốn ''Maha Yazawin''.<ref name=utk-102-103/> Nói chung, mọi cuốn biên niên sử đều chỉ ra sự liên kết giữa ông và tất cả các triều đại đã từng tồn tại ở vùng Thượng Miến Điện như triều [[Vương quốc Ava|Ava]], [[Vương quốc Sagaing|Sagaing]], [[Vương quốc Myinsaing|Myinsaing]]-[[Vương quốc Pinya|Pinya]] và [[Vương quốc Pagan|Pagan]].


Khác hẳn so với phiên bản chính thức về dòng dõi hoàng tộc, truyền thuyết dân gian truyền miệng lại đề cập đến một gia phả không có gì để có thể gọi là vĩ đại. Theo phiên bản này, cha mẹ ông là dân thường đến từ vùng Ngathayauk thuộc [[Pagan]] hoặc làng Htihlaing thuộc [[Toungoo]] và cha ông làm nghề trèo cây thốt nốt - một trong những nghề nghiệp mạt hạng trong xã hội Miến Điện thời bấy giờ. Những câu chuyện kể về nguồn gốc thường dân của ông trở non phổ biến và nổi tiếng trong những năm đầu thế kỷ 20 thời thuộc Anh khi mà những tri thức yêu nước như nhà văn [[Po Kya]] muốn chứng minh rằng ngay cả con trai của kẻ trèo cây [[thốt nốt]] cũng có trở thành vị hoàng đế vĩ đại nhất của Miến Điện.<ref name=utk-104-105>Thaw Kaung 2010: 104–105</ref> Tuy nhiên, việc một người làm nghề trèo không ngăn cản việc người đó mang trong mình dòng máu quý tộc.<ref group=note>(Harvey 1925: 342): While "the family trees sported by men after they attain greatness must be suspect", Swe being "a toddy climber no more precludes the possibility of his having royal ancestors than it precluded his becoming vassal king of Toungoo when his son rose to greatness."</ref>
Khác hẳn so với phiên bản chính thức về dòng dõi hoàng tộc, truyền thuyết dân gian truyền miệng lại đề cập đến một gia phả không có gì để có thể gọi là vĩ đại. Theo phiên bản này, cha mẹ ông là dân thường đến từ vùng Ngathayauk thuộc [[Pagan]] hoặc làng Htihlaing thuộc [[Toungoo]] và cha ông làm nghề trèo cây thốt nốt - một trong những nghề nghiệp mạt hạng trong xã hội Miến Điện thời bấy giờ. Những câu chuyện kể về nguồn gốc thường dân của ông trở non phổ biến và nổi tiếng trong những năm đầu thế kỷ 20 thời thuộc Anh khi mà những tri thức yêu nước như nhà văn [[Po Kya]] muốn chứng minh rằng ngay cả con trai của kẻ trèo cây [[thốt nốt]] cũng có trở thành vị hoàng đế vĩ đại nhất của Miến Điện.<ref name=utk-104-105>Thaw Kaung 2010: 104–105</ref> Tuy nhiên, việc một người làm nghề thấp kém cũng không ngăn cản việc người đó mang trong mình dòng máu quý tộc.<ref group=note>(Harvey 1925: 342): While "the family trees sported by men after they attain greatness must be suspect", Swe being "a toddy climber no more precludes the possibility of his having royal ancestors than it precluded his becoming vassal king of Toungoo when his son rose to greatness."</ref>


Theo truyền thuyết, Bayinnaung là con trai của một cặp vợ chống làm nghề chế mật mía nhà ở gần Pagan. Lúc nhỏ ông có tên là '''[[Tên người Miến|Shin]] Ye Htut''' ({{lang|my|ရှင်ရဲထွတ်}}). Ye Htut trong tiếng Myanma có nghĩa là "con mối", vì lúc sinh ở vườn nhà ông có một tổ mối. Ngay sau khi ông ra đời thì đến lượt Hoàng tử Mintaya chào đời. Mẹ Ye Htut được gọi đến Taungoo làm nhũ mẫu cho Hoàng tử Mintaya. Ở Taungoo, Ye Htut và Hoàng tử Mintaya lớn lên cùng nhau và trở thành bạn của nhau. Khi trưởng thành, Ye Htut được làm quan nhỏ trong triều. Vì dám có quan hệ yêu đương với công chúa con vua, nên Ye Htut đáng lẽ đã bị tống vào ngục, nhưng may nhờ một vị sư xin giúp mà thoát tội. Sau đó, Hoàng tử Mintaya lên ngôi vua, tức là Vua [[Tabinshweti]] [[triều Taungoo|nhà Taungoo]], vào năm 1531. Nhờ là bạn của vua thuở nhỏ, Ye Htut được vua yêu mến, gả em mình cho và được vua mới gọi bằng '''Bayinnaung Kyawhtin Nawrahta''' (Bayinnaung nghĩa là "hoàng nghĩa đệ").
Theo truyền thuyết, Bayinnaung là con trai của một cặp vợ chống làm nghề chế mật mía nhà ở gần Pagan. Lúc nhỏ ông có tên là '''[[Tên người Miến|Shin]] Ye Htut''' ({{lang|my|ရှင်ရဲထွတ်}}). Ye Htut trong tiếng Myanma có nghĩa là "con mối", vì lúc sinh ở vườn nhà ông có một tổ mối. Ngay sau khi ông ra đời thì đến lượt Hoàng tử Mintaya chào đời. Mẹ Ye Htut được gọi đến Taungoo làm nhũ mẫu cho Hoàng tử Mintaya. Ở Taungoo, Ye Htut và Hoàng tử Mintaya lớn lên cùng nhau và trở thành bạn của nhau. Khi trưởng thành, Ye Htut được làm quan nhỏ trong triều. Vì dám có quan hệ yêu đương với công chúa con vua, nên Ye Htut đáng lẽ đã bị tống vào ngục, nhưng may nhờ một vị sư xin giúp mà thoát tội. Sau đó, Hoàng tử Mintaya lên ngôi vua, tức là Vua [[Tabinshweti]] [[triều Taungoo|nhà Taungoo]], vào năm 1531. Nhờ là bạn của vua thuở nhỏ, Ye Htut được vua yêu mến, gả em mình cho và được vua mới gọi bằng '''Bayinnaung Kyawhtin Nawrahta''' (Bayinnaung nghĩa là "hoàng nghĩa đệ").

Phiên bản lúc 00:46, ngày 25 tháng 12 năm 2016

Bayinnaung
ဘုရင့်နောင်
Tượng Bayinnaung ở phía trước của Bảo tàng Quốc gia Myanmar
Tại vị11 tháng 01 năm 1551 – tháng 11 năm 1581 (30 năm 10 tháng)
Đăng quang12 tháng 01 năm 1554
Tiền nhiệmTabinshwehti
Kế vịNanda
Thông tin chung
Sinh13 tháng 2 năm 1516[1]
MấtTháng 11 năm 1581 (hưởng dương 65 tuổi)
Phối ngẫuAtulathiri
Sandadewi
Yazadewi[2]
Hậu duệNanda
Nyaungyan
Minye Thihathu
Nawrahta Minsaw[2]
Tên đầy đủ
Shin Ye Htut (ရှင်ရဲထွတ်)
Hoàng tộcTaungoo
Thân phụMingyiswe
Thân mẫuShin Myo Myat
Tôn giáoPhật giáo Thượng tọa bộ

Bayinnaung (tiếng Miến Điện: ဘုရင့်နောင်, phát âm [bəjɪ̰ɴ nàuɴ]; sinh: 13/11/1516 – mất 11/1581) là vị vua đời thứ ba của nhà TaungooMyanma. Suốt 30 năm trị vì, mà một sử gia từng đánh giá là "sự bùng nổ nhiệt huyết lớn nhất từng thấy ở Myanma", Bayinnaung đã thành lập nên đế quốc lớn nhất Đông Nam Á, bao gồm Myanma ngày nay, Manipur nay thuộc Ấn Độ, Mong Mao (những nhà nước cổ của người ShanVân Nam), Lan Na (bắc Thái Lan ngày nay), Ayutthaya (miền trung và nam Thái Lan ngày nay) và Lan Xang (đông bắc Thái Lan và Lào ngày nay).[3]

Dù người ta thường hay nhớ đến ông vì võ công vĩ đại xây dựng đế quốc, song di sản lớn nhất của Bayinnaung là đã thu phục được các nhà nước Shan vào vương quốc do người Miến lãnh đạo, nhờ đó loại bỏ nguy cơ người Shan xâm phạm Thượng Miến, một nguy cơ xuất hiện và thường trực từ cuối thế kỷ 13. Sau khi chinh phạt các nhà nước Shan vào năm 1557, vị vua này đã thiết kế một hệ thống hành chính làm suy yếu sức mạnh thế tập của các saopha (tù trưởng) người Shan, và điều chỉnh các tập quán của người Shan phù hợp với những chuẩn mực của người Miến. Chính sách đối với người Shan của ông được các vị vua người Miến sau này tiếp tục cho đến tận khi vương quốc này bị thực dân Anh thôn tính vào năm 1885.[4]

Tuy nhiên, ông đã không thể áp dụng chính sách hành chính nói trên vào bất kỳ đâu khác trong đế quốc của mình. Đế quốc của ông là một tập hợp lỏng lẻo các vương quốc có chủ quyền mà vua của những xứ đó thần phục chính bản thân ông như một vị vua của các vị vua, chứ không thần phục vương quốc Taungoo. Chỉ sau khi ông qua đời chỉ 3 năm, người Ayutthaya đã vùng dậy. Đến năm 1599, tất cả các vị vua mà ông đã khuất phục đều đã phản lại, và đế quốc của Bayinnaung đã sụp đổ hoàn toàn.

Ở Thái Lan, ông nổi tiếng nhờ một bài hát và một cuốn sách thu hút rộng rãi độc giả có tên "Phu Chana Sip Thit" nghĩa là "Người chinh phạt thập phương".

Tuổi trẻ

Vị vua tương lại được sinh ra với cái tên Ye Htut (ရဲထွတ်, IPA: [jɛ́ tʰʊʔ]) vào ngày 16 tháng 1 năm 1516. Ông là con của Mingyi SweShin Myo Myat. Không có nhiều điều được biết đến về tổ tiên của ông. Không có bất cứ tài liệu đương thời nào đề cập đến tổ tiên của ông, kế cả cuốn biên niên sử đồ sộ Hanthawaddy Hsinbyushin Ayedawbon viết về triều đại của ông được viết hai năm trước khi ông mất.[5] Chỉ đến năm 1724, tức là 143 năm sau khi nhà vua băng hà, cuốn biên niên sử chính thức Maha Yazawin của triều Toungoo mới lần đầu tiên đề cập đến gia phả của ông. Theo cuốn Maha Yazawin, ông được sinh ra trong một gia đình quý tộc ở Toungoo (Taungoo), lúc bấy giờ vốn là chư hầu của triều Ava. Ông là hậu duệ của Phó vương xứ Taungoo Tarabya (cai trị từ 1440-1446) và Minkhaung I (cai trị 1446-1451) theo bên nội và là hậu duệ của vua Thihathu xứ Pinya (cai trị 1310-1325) cùng hoàng hậu Mi Saw U theo bên ngoại.[6] Ngoài ra, Ye Htut còn là họ hàng xa của Mingyi Nyo, nhà cai trị xứ Toungoo lúc bấy giờ, và con trai ông ta Tabinshwehti thông qua tổ tiên chung là Tarabya xứ Pakhan.[note 1] Các tại liệu đời sau đều gần như ghi chép y hệt cuốn Maha Yazawin.[5] Nói chung, mọi cuốn biên niên sử đều chỉ ra sự liên kết giữa ông và tất cả các triều đại đã từng tồn tại ở vùng Thượng Miến Điện như triều Ava, Sagaing, Myinsaing-PinyaPagan.

Khác hẳn so với phiên bản chính thức về dòng dõi hoàng tộc, truyền thuyết dân gian truyền miệng lại đề cập đến một gia phả không có gì để có thể gọi là vĩ đại. Theo phiên bản này, cha mẹ ông là dân thường đến từ vùng Ngathayauk thuộc Pagan hoặc làng Htihlaing thuộc Toungoo và cha ông làm nghề trèo cây thốt nốt - một trong những nghề nghiệp mạt hạng trong xã hội Miến Điện thời bấy giờ. Những câu chuyện kể về nguồn gốc thường dân của ông trở non phổ biến và nổi tiếng trong những năm đầu thế kỷ 20 thời thuộc Anh khi mà những tri thức yêu nước như nhà văn Po Kya muốn chứng minh rằng ngay cả con trai của kẻ trèo cây thốt nốt cũng có trở thành vị hoàng đế vĩ đại nhất của Miến Điện.[7] Tuy nhiên, việc một người làm nghề thấp kém cũng không ngăn cản việc người đó mang trong mình dòng máu quý tộc.[note 2]

Theo truyền thuyết, Bayinnaung là con trai của một cặp vợ chống làm nghề chế mật mía nhà ở gần Pagan. Lúc nhỏ ông có tên là Shin Ye Htut (ရှင်ရဲထွတ်). Ye Htut trong tiếng Myanma có nghĩa là "con mối", vì lúc sinh ở vườn nhà ông có một tổ mối. Ngay sau khi ông ra đời thì đến lượt Hoàng tử Mintaya chào đời. Mẹ Ye Htut được gọi đến Taungoo làm nhũ mẫu cho Hoàng tử Mintaya. Ở Taungoo, Ye Htut và Hoàng tử Mintaya lớn lên cùng nhau và trở thành bạn của nhau. Khi trưởng thành, Ye Htut được làm quan nhỏ trong triều. Vì dám có quan hệ yêu đương với công chúa con vua, nên Ye Htut đáng lẽ đã bị tống vào ngục, nhưng may nhờ một vị sư xin giúp mà thoát tội. Sau đó, Hoàng tử Mintaya lên ngôi vua, tức là Vua Tabinshweti nhà Taungoo, vào năm 1531. Nhờ là bạn của vua thuở nhỏ, Ye Htut được vua yêu mến, gả em mình cho và được vua mới gọi bằng Bayinnaung Kyawhtin Nawrahta (Bayinnaung nghĩa là "hoàng nghĩa đệ").

Sau thất bại trong việc chinh phạt Ayutthaya vào năm 1548, Tabinshweti chán nản và suy nhược tinh thần. Khi đó, Bayinnaung được vua phong làm phó vương và đã kiểm soát chính sự để giữ yên đất nước. Smim Htaw, con trai một vị vua người MônPegu đã nổi dậy và Tabinshweti bị một thuộc hạ thân tín người Môn tên là Smim Sawhtut - vốn cũng là người dòng dõi hoàng tộc Môn - ám sát. Smim Sawhtut sau đó tự xưng là vua của người Môn, và như vậy kình địch với Smim Htaw. Smim Htaw đã dẫn quân Môn tấn công Pegu và đã giết được Smim Sawhtut.

Giành lại đất nước (1550-1555)

Sau khi Tabinshwehti bị người Môn ám sát ngay tại kinh đô Pegu vào năm 1550, Bayinnaung đã lãnh đạo cuộc chiến tranh giành lại vương quốc của Tabinshwehti, giành lại Taungoo và Prome vào năm 1551, Pegu, Martaban, và Bassein vào năm 1552, và cuối cùng là Ava vào năm 1555.

Các nhà nước Shan và Chiang Mai (1557-1558)

Sau khi giành lại Thượng Miến và Hạ Miến, Bayinnaung đã dẫn quân tiến lên phía bắc chinh phạt khu vực của người Shan và chiếm được Mong Mit, Hsipaw, Yawnghwe, Mong Yang, và Mogaung vào năm 1557.

Năm tiếp theo, ông đánh chiếm Mong NaiLan Na (Zin Mè 1558). Năm 1563, ông chinh phạt Mong Mao, một nhà nước khác của người Shan mà nay nằm trong lãnh thổ Trung Quốc hiện tại.

Năm 1576, ông đưa quân trở lại Mogaung để tăng cường sự kiểm soát của mình ở đây.

Ayutthaya (1564-1569)

Năm 1563, Bayinnaung tiến hành một chiến dịch quân sự lớn nhằm vào Ayutthaya, chiếm được kinh đô của nước này, buộc vua Ayutthaya phải đầu hàng vào năm 1569 mặc dù người Thái không ngừng kháng cự ở khắp nơi. Trong thực tế, Ayutthaya đã bị khuất phục thành một chư hầu của Myanma, và hàng ngàn người Thái đã bị bắt đem về Myanma, gồm cả hai hoàng tử NaresuanEkathotsarot.

Lan Xang (những năm 1570)

Cũng trong thời kỳ những năm 1570 Bayinnaung đã chinh phạt vương quốc Lan Xang (Lin Zin) ở Lào ngày nay. Vua Lan Xang, Setthathirath, và thần dân của ông đã bỏ kinh đô Viêng Chăn vào rừng sâu kháng chiến.

Bayinnaung đã truy đuổi vào trong rừng sâu, nhưng chiến tranh trong địa hình như vậy rất khó khăn. Rất khó tìm ra và giáp chiến với đối phương. Không thực sự kiểm soát nổi Lan Xang, Bayinnaung rút về Myanma.

Nhưng không bỏ cuộc, năm 1574, Bayinnaung lại tái chinh phạt Lan Xang. Ông đã thử lùa dân địa phương quay về kinh đô và xây dựng lại vương quốc này và cho người của ông cai trị.

Qua đời (1581)

Ngay trước khi qua đời năm 1581 Bayinnaung vẫn còn chuẩn bị mở một cuộc tấn công nữa vào Arakan ở ven biển phía tây. Kế vị Bayinnaung là con trai ông, Nanda Bayin. Trong thời kỳ con ông trị vì, đế quốc mà Bayinnaung xây dựng đã tan rã, và Ayutthaya đã ly khai ngay sau khi Bayinnaung qua đời.

Di sản

Bayinnaung (mặc giáp phục) trong một cảnh phim "Puchana Sib Tid"
  • Là người đã chinh phạt Ayutthaya và Lan Na, những nhà nước tiền thân của Thái Lan, ông được người Thái biết đến khá nhiều và được kính trọng. Họ gọi ông là Burenong. Chote Praepan (bút danh "Jacob"), một nhà báo có ảnh hưởng ở Thái Lan và cũng là một nhà văn đã phát triển câu chuyện về ông theo hướng thành một bản anh hùng ca giả tưởng, "ผู้ชนะสิบทิศ" hay "Puchana Sib Tid", nghĩa là "người chinh phạt mười phương". Trong truyện, ông là người đã đem vị hoàng tử nhỏ tuổi người Thái về Myanma và dạy dỗ.
  • Tiểu thuyết nói trên đã được dùng để làm phim truyền hình và phim truyện. Một bài hát cùng tên đã được viết cho các bộ phim và do Charintra Nanthanakorn thể hiện, đến nay vẫn là một trong những bài hát phổ biến nhất ở Thái Lan.

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ Khin Khin Ma (2004). Selected Writings of Khin Khin Ma. Myanmar Historical Commission, Golden Jubilee Publication Committee. tr. 21.
  2. ^ a b Tun Aung Chain (2004). Selected Writings of Tun Aung Chain. Myanmar Historical Commission. tr. 119.
  3. ^ Victor B Lieberman (2003). Strange Parallels: Southeast Asia in Global Context, c. 800-1830, volume 1, Integration on the Mainland. Cambridge University Press. tr. 150–154.
  4. ^ Maung Htin Aung (1967). A History of Burma. New York and London: Cambridge University Press. tr. 117–118.
  5. ^ a b Thaw Kaung 2010: 102–103
  6. ^ Thaw Kaung 2010: 118–119
  7. ^ Thaw Kaung 2010: 104–105

Liên kết ngoài

Bayinnaung
Sinh: 2 /, 1516 Mất: 11 /, 1581
Tước hiệu
Tiền nhiệm
Tabinshwehti
Vua Myanma
1/1551 - 11/1581
Kế nhiệm
Nanda


Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “note”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="note"/> tương ứng, hoặc thẻ đóng </ref> bị thiếu