Khác biệt giữa bản sửa đổi của “The Piper at the Gates of Dawn”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
ông nào xài google dịch tệ quá. Sửa đổi và bổ sung khá nhiều nội dung không được đề cập, rảnh dịch nốt mấy phần dưới sau :v
Dòng 20: Dòng 20:
}}
}}
}}
}}
'''''The Piper at the Gates of Dawn''''' là album phòng thu đầu tay của ban nhạc rock người Anh [[Pink Floyd]], và là album duy nhất được thực hiện dưới sự lãnh đạo của [[Syd Barrett]]. Tên album đặt theo tên chương bảy cuối truyện thiếu nhi ''[[The Wind in the Willows]]'' của [[Kenneth Grahame]]<ref>{{chú thích sách|last=Cavanagh|first=John|title=The Piper at the Gates of Dawn|year=2003|publisher=Continuum|location=New York [u.a.]|isbn=978-0-8264-1497-7|pages=2–3}}</ref> và bìa album được thực hiện bởi Vic Singh dưới góc nhìn của [[kính vạn hoa]], album được thu âm từ tháng 2-5, 1967. Nó được sản xuất bởi kỷ thuật viên [[Norman Smith (nhà sản xuất thu âm)|Norman Smith]] của [[The Beatles]], phát hành bởi [[Columbia Graphophone Company|EMI Columbia]] ở Vương quốc Anh vào tháng 8 và [[Tower Records (hãng thu âm)|Tower Records]] ở Mỹ vào tháng 10.
'''''The Piper at the Gates of Dawn''''' là album phòng thu đầu tay của ban nhạc rock người Anh [[Pink Floyd]], và là album duy nhất được thực hiện dưới sự dẫn dắt của [[Syd Barrett]]. Tên album đặt theo tên chương bảy cuối truyện thiếu nhi ''[[The Wind in the Willows]]'' của [[Kenneth Grahame]]<ref>{{chú thích sách|last=Cavanagh|first=John|title=The Piper at the Gates of Dawn|year=2003|publisher=Continuum|location=New York [u.a.]|isbn=978-0-8264-1497-7|pages=2–3}}</ref> và bìa album được thực hiện bởi Vic Singh dưới góc nhìn của [[kính vạn hoa]], album được thu âm từ tháng 2-5, 1967. Nó được sản xuất bởi kỷ thuật viên [[Norman Smith (nhà sản xuất thu âm)|Norman Smith]] của [[The Beatles]], phát hành bởi [[Columbia Graphophone Company|EMI Columbia]] ở Vương quốc Anh vào tháng 8 và [[Tower Records (hãng thu âm)|Tower Records]] ở Mỹ vào tháng 10.


Ban nhạc lưu diễn tại Mỹ cùng thời gian album được phát hành tại đó. Tại Vương quốc Anh, không có đĩa đơn nào được phát hành từ album, như tại Mỹ "[[Flaming (bài hát)|Flaming]]" là đĩa đơn được chọn. Phiên bản tại Mỹ có danh sách bài hát được tái sắp xếp, và gồm cả đĩa đơn không album ở Anh, "[[See Emily Play]]". Hai bài hát từ album, "[[Astronomy Domine]]" và "[[Interstellar Overdrive]]", trở thành trung tâm trong các buổi biểu diễn của ban nhạc thời kỳ này, trong khi các bài hát khác chỉ được biểu diễn khi có thừa thời gian.
Ban nhạc lưu diễn tại Mỹ cùng thời gian album được phát hành tại đó. Tại Vương quốc Anh, không có đĩa đơn nào được phát hành từ album, như tại Mỹ "[[Flaming (bài hát)|Flaming]]" là đĩa đơn được chọn. Phiên bản tại Mỹ có danh sách bài hát được tái sắp xếp, và gồm cả đĩa đơn không album ở Anh, "[[See Emily Play]]". Hai bài hát từ album, "[[Astronomy Domine]]" và "[[Interstellar Overdrive]]", trở thành trung tâm trong các buổi biểu diễn của ban nhạc thời kỳ này, trong khi các bài hát khác chỉ được biểu diễn khi có thừa thời gian.


Từ khi được phát hành, album được xem là một trong những album [[psychedelic rock]] hay nhất thập kỷ 1960. Năm 1973, nó được gộp chung với album thứ hai, ''[[A Saucerful of Secrets]]'', và phát hành dưới tên ''[[A Nice Pair]]'' để giới thiệu cho các fan mới các phẩm đầu tiên của ban nhạc sau sự thành công của ''[[The Dark Side of the Moon]]''. Phiên bản kỷ niệm đặc biệt của ''The Piper at the Gates of Dawn'' được tái phát hành vào năm 1997 và 2007, để kỷ nhiệm các ba mươi và bốn mươi năm ngày phát hành album, cùng với các bài hát thêm. ''The Piper at the Gates of Dawn'' đạt vị trí số 347 trên danh sách "500 album vĩ đại nhất mọi thời đại" của ''Rolling Stone''.
Từ khi được phát hành, album được tán thưởng và được coi là một trong những album [[psychedelic rock]] hay nhất, và quan trọng thập kỷ 1960, với các yếu tố cơ bản hình thành nên [[progressive rock]]. Năm 1973, nó được gộp chung với album thứ hai, ''[[A Saucerful of Secrets]]'', và phát hành dưới tên ''[[A Nice Pair]]'' để giới thiệu cho các fan mới các phẩm đầu tiên của ban nhạc sau sự thành công của ''[[The Dark Side of the Moon]]''. Phiên bản kỷ niệm đặc biệt của ''The Piper at the Gates of Dawn'' được tái phát hành vào năm 1997 và 2007, để kỷ nhiệm các ba mươi và bốn mươi năm ngày phát hành album, cùng với các bài hát thêm. ''The Piper at the Gates of Dawn'' đạt vị trí số 347 trên danh sách "500 album vĩ đại nhất mọi thời đại" của ''Rolling Stone''.
==Bối cảnh==
==Bối cảnh==
[[Roger Waters]], [[Nick Mason]], [[Richard Wright (nhạc sĩ)|Richard Wright]] và [[Syd Barrett]] đã biểu diễn dưới nhiều tên nhóm từ năm 1962, và bắt đầu biểu diễn dưới tên "The Pink Floyd Sound" năm 1965.<ref name=povey24-29>{{chú thích sách|last=Povey|first=Glenn|title=Echoes: The Complete History of Pink Floyd|year=2007|publisher=Mind Head Publishing|isbn=978-0-9554624-0-5|edition=New|pages=24–29}}</ref> Họ trở thành nghệ sĩ chuyên nghiệp vào ngày 1 tháng 2 năm 1967 khi ký hợp đồng với [[EMI]], với thù lao trả trước £5,000.<ref name="Schaffner54–56">{{chú thích sách|last=Schaffner|first=Nicholas|title=Saucerful of Secrets: The Pink Floyd Odyssey|year=2005|publisher=Helter Skelter|location=London|isbn=1-905139-09-8|pages=54–56|edition=New}}</ref><ref name=blake74>{{chú thích sách|last=Blake|first=Mark|title=Comfortably Numb: The Inside Story of Pink Floyd|year=2008|publisher=Da Capo|location=Cambridge, MA|isbn=0-306-81752-7|page=74}}</ref><ref name=Irgh137>{{chú thích sách|last=Chapman|first=Rob|title=Syd Barrett: A Very Irregular Head|year=2010|publisher=Faber|location=London|isbn=978-0-571-23855-2|edition=Paperback|page=137}}</ref> Đĩa đơn đầu tiên của họ,"[[Arnold Layne]]," phát hành 11 tháng 3 – [[Wonderful Radio London|Radio London]] từ chối phát nó.<ref name="Schaffner54–56"/><ref>Cavanagh 2003, p. 19</ref> Khoảng ba tuần sau ban nhạc đã làm quen với môi trường âm nhạc lớn.{{#tag:ref|Họ khi đó đã được biết đến nhiều trong giới nhạc underground.|group="nb"}} Ban nhạc trở lại phòng thu [[Sound Techniques]] để thu âm đĩa đơn tiếp theo, "[[See Emily Play]]," ngày 18 tháng 5.<ref name="Schaffner66">Schaffner 2005, p. 66</ref><ref name=Irgh171>Chapman 2010, p. 171</ref> Đĩa đơn được phát hành sau gần một tháng, ngày 16 tháng 6, và đạt vị trí số sáu trên bảng xếp hạng tại Anh.<ref name=blake88-89>Blake 2008, p. 88–89</ref><ref name="officialcharts">{{chú thích web |url=http://www.officialcharts.com/artist/_/pink%20floyd/ |title=Pink Floyd <nowiki>| Artist |</nowiki> Official Charts |work=officialcharts.com |accessdate=ngày 10 tháng 10 năm 2012}}</ref> Mặc dù ban nhạc bị báo chí cho là dùng LSD (một chất kích thích), chỉ Barrett là dùng LSD; [[Ray B. Browne]] và Pat Browne gọi Barrett là "người duy nhất dùng ma túy trong ban nhạc".<ref>{{chú thích sách|last1=Browne|first1=Ray B.|authorlink1=Ray B. Browne|last2=Browne|first2=Pat|title=The Guide to United States Popular Culture|year=2000|publisher=Bowling Green State University Popular Press|location=Bowling Green, OH|isbn=978-0-87972-821-2|page=610}}</ref>
[[Roger Waters]], [[Nick Mason]], [[Richard Wright (nhạc sĩ)|Richard Wright]] và [[Syd Barrett]] đã biểu diễn dưới nhiều tên nhóm từ năm 1962, và bắt đầu biểu diễn dưới tên "The Pink Floyd Sound" năm 1965.<ref name=povey24-29>{{chú thích sách|last=Povey|first=Glenn|title=Echoes: The Complete History of Pink Floyd|year=2007|publisher=Mind Head Publishing|isbn=978-0-9554624-0-5|edition=New|pages=24–29}}</ref> Họ trở thành nghệ sĩ chuyên nghiệp vào ngày 1 tháng 2 năm 1967 khi ký hợp đồng với [[EMI]], với thù lao trả trước £5,000.<ref name="Schaffner54–56">{{chú thích sách|last=Schaffner|first=Nicholas|title=Saucerful of Secrets: The Pink Floyd Odyssey|year=2005|publisher=Helter Skelter|location=London|isbn=1-905139-09-8|pages=54–56|edition=New}}</ref><ref name=blake74>{{chú thích sách|last=Blake|first=Mark|title=Comfortably Numb: The Inside Story of Pink Floyd|year=2008|publisher=Da Capo|location=Cambridge, MA|isbn=0-306-81752-7|page=74}}</ref><ref name=Irgh137>{{chú thích sách|last=Chapman|first=Rob|title=Syd Barrett: A Very Irregular Head|year=2010|publisher=Faber|location=London|isbn=978-0-571-23855-2|edition=Paperback|page=137}}</ref> Đĩa đơn đầu tiên của họ,"[[Arnold Layne]]," phát hành 11 tháng 3 – [[Wonderful Radio London|Radio London]] từ chối phát nó.<ref name="Schaffner54–56"/><ref>Cavanagh 2003, p. 19</ref>
Khoảng ba tuần sau khi ban nhạc được giới thiệu với truyền thông chính thống.{{#tag:ref|Họ khi đó đã được biết đến nhiều trong giới nhạc underground.|group="nb"}} EMI xuất bản thông báo ban nhạc là "những phát ngôn viên cho trào lưu thử nghiệm trong mọi hình thức nghệ thuật" nhưng EMI cũng cố gắng tách họ khỏi the underground scene "Pink Floyd không biết những gì mọi người mong ở psychedelic và không cố tạo hiệu ứng ảo giác cho họ". Ban nhạc trở lại phòng thu [[Sound Techniques]] để thu âm đĩa đơn tiếp theo, "[[See Emily Play]]," ngày 18 tháng 5.<ref name="Schaffner66">Schaffner 2005, p. 66</ref><ref name="Irgh171">Chapman 2010, p. 171</ref> Đĩa đơn được phát hành sau gần một tháng, ngày 16 tháng 6, và đạt vị trí số sáu trên bảng xếp hạng tại Anh.<ref name="blake88-89">Blake 2008, p. 88–89</ref><ref name="officialcharts">{{chú thích web |url=http://www.officialcharts.com/artist/_/pink%20floyd/ |title=Pink Floyd <nowiki>| Artist |</nowiki> Official Charts |work=officialcharts.com |accessdate=ngày 10 tháng 10 năm 2012}}</ref>
Mặc dù ban nhạc bị báo chí cho là dùng LSD (một chất kích thích), chỉ Barrett là dùng LSD; [[Ray B. Browne]] và Pat Browne gọi Barrett là "người duy nhất dùng ma túy trong ban nhạc".<ref>{{chú thích sách|last1=Browne|first1=Ray B.|authorlink1=Ray B. Browne|last2=Browne|first2=Pat|title=The Guide to United States Popular Culture|year=2000|publisher=Bowling Green State University Popular Press|location=Bowling Green, OH|isbn=978-0-87972-821-2|page=610}}</ref>

<br />
==Ghi âm==
<br />


==Danh sách bài hát==
==Danh sách bài hát==

Phiên bản lúc 08:26, ngày 10 tháng 7 năm 2019

The Piper at the Gates of Dawn
Album phòng thu của Pink Floyd
Phát hành5 tháng 8 năm 1967
Thu âm21 tháng 2 – 21 tháng 5 năm 1967 ở EMI Studios, London
Thể loạiPsychedelic rock
Thời lượng41:52
Hãng đĩaEMI Columbia
Sản xuấtNorman Smith
Thứ tự album của Pink Floyd
The Piper at the Gates of Dawn
(1967)
A Saucerful of Secrets
(1968)
Đĩa đơn từ The Piper at the Gates of Dawn
  1. ""Flaming" / "The Gnome""
    Phát hành: 2 tháng 11 năm 1967 (chỉ tại Mỹ)

The Piper at the Gates of Dawn là album phòng thu đầu tay của ban nhạc rock người Anh Pink Floyd, và là album duy nhất được thực hiện dưới sự dẫn dắt của Syd Barrett. Tên album đặt theo tên chương bảy cuối truyện thiếu nhi The Wind in the Willows của Kenneth Grahame[1] và bìa album được thực hiện bởi Vic Singh dưới góc nhìn của kính vạn hoa, album được thu âm từ tháng 2-5, 1967. Nó được sản xuất bởi kỷ thuật viên Norman Smith của The Beatles, phát hành bởi EMI Columbia ở Vương quốc Anh vào tháng 8 và Tower Records ở Mỹ vào tháng 10.

Ban nhạc lưu diễn tại Mỹ cùng thời gian album được phát hành tại đó. Tại Vương quốc Anh, không có đĩa đơn nào được phát hành từ album, như tại Mỹ "Flaming" là đĩa đơn được chọn. Phiên bản tại Mỹ có danh sách bài hát được tái sắp xếp, và gồm cả đĩa đơn không album ở Anh, "See Emily Play". Hai bài hát từ album, "Astronomy Domine" và "Interstellar Overdrive", trở thành trung tâm trong các buổi biểu diễn của ban nhạc thời kỳ này, trong khi các bài hát khác chỉ được biểu diễn khi có thừa thời gian.

Từ khi được phát hành, album được tán thưởng và được coi là một trong những album psychedelic rock hay nhất, và quan trọng thập kỷ 1960, với các yếu tố cơ bản hình thành nên progressive rock. Năm 1973, nó được gộp chung với album thứ hai, A Saucerful of Secrets, và phát hành dưới tên A Nice Pair để giới thiệu cho các fan mới các phẩm đầu tiên của ban nhạc sau sự thành công của The Dark Side of the Moon. Phiên bản kỷ niệm đặc biệt của The Piper at the Gates of Dawn được tái phát hành vào năm 1997 và 2007, để kỷ nhiệm các ba mươi và bốn mươi năm ngày phát hành album, cùng với các bài hát thêm. The Piper at the Gates of Dawn đạt vị trí số 347 trên danh sách "500 album vĩ đại nhất mọi thời đại" của Rolling Stone.

Bối cảnh

Roger Waters, Nick Mason, Richard WrightSyd Barrett đã biểu diễn dưới nhiều tên nhóm từ năm 1962, và bắt đầu biểu diễn dưới tên "The Pink Floyd Sound" năm 1965.[2] Họ trở thành nghệ sĩ chuyên nghiệp vào ngày 1 tháng 2 năm 1967 khi ký hợp đồng với EMI, với thù lao trả trước £5,000.[3][4][5] Đĩa đơn đầu tiên của họ,"Arnold Layne," phát hành 11 tháng 3 – Radio London từ chối phát nó.[3][6]

Khoảng ba tuần sau khi ban nhạc được giới thiệu với truyền thông chính thống.[nb 1] EMI xuất bản thông báo ban nhạc là "những phát ngôn viên cho trào lưu thử nghiệm trong mọi hình thức nghệ thuật" nhưng EMI cũng cố gắng tách họ khỏi the underground scene "Pink Floyd không biết những gì mọi người mong ở psychedelic và không cố tạo hiệu ứng ảo giác cho họ". Ban nhạc trở lại phòng thu Sound Techniques để thu âm đĩa đơn tiếp theo, "See Emily Play," ngày 18 tháng 5.[7][8] Đĩa đơn được phát hành sau gần một tháng, ngày 16 tháng 6, và đạt vị trí số sáu trên bảng xếp hạng tại Anh.[9][10]

Mặc dù ban nhạc bị báo chí cho là dùng LSD (một chất kích thích), chỉ Barrett là dùng LSD; Ray B. Browne và Pat Browne gọi Barrett là "người duy nhất dùng ma túy trong ban nhạc".[11]


Ghi âm


Danh sách bài hát

Tất cả bài hát được sáng tác và soạn bởi Syd Barrett, các sáng tác khác được ghi chú bên.

Ấn bản ở Anh
Mặt một
STTNhan đềHát chínhThời lượng
1."Astronomy Domine"Barrett và Richard Wright4:12
2."Lucifer Sam"Barrett3:07
3."Matilda Mother"Wright và Barrett3:08
4."Flaming"Barrett2:46
5."Pow R. Toc H." (Barrett, Roger Waters, Wright, Nick Mason)Không lời, đọc thoại bởi Barrett và Waters4:26
6."Take Up Thy Stethoscope and Walk" (Waters)Waters3:05
Mặt hai
STTNhan đềHát chínhThời lượng
1."Interstellar Overdrive" (Barrett, Waters, Wright, Mason)Không lời9:41
2."The Gnome"Barrett2:13
3."Chapter 24"Barrett3:42
4."The Scarecrow"Barrett2:11
5."Bike"Barrett3:21
Ấn bản ở Mỹ
Mặt một
STTNhan đềHát chínhThời lượng
1."See Emily Play"Barrett2:53
2."Pow R. Toc H." (Barrett, Waters, Wright, Mason)Barrett và Waters4:26
3."Take Up Thy Stethoscope and Walk" (Waters)Waters3:05
4."Lucifer Sam"Barrett3:07
5."Matilda Mother"Wright và Barrett3:08
Mặt hai
STTNhan đềHát chínhThời lượng
1."The Scarecrow"Barrett2:11
2."The Gnome"Barrett2:13
3."Chapter 24"Barrett3:42
4."Interstellar Overdrive" (Barrett, Waters, Wright, Mason)Không lời9:41
Phiên bản kỷ niệm 40 năm phát hành
Đĩa một
STTNhan đềHát chínhThời lượng
1."Astronomy Domine (Mono)"Barrett và Richard Wright4:17
2."Lucifer Sam (Mono)"Barrett3:09
3."Matilda Mother (Mono)"Wright và Barrett3:05
4."Flaming (Mono)"Barrett2:46
5."Pow R. Toc H. (Mono)" (Barrett, Roger Waters, Wright, Nick Mason)Barrett và Waters4:24
6."Take Up Thy Stethoscope and Walk (Mono)" (Waters)Waters3:07
7."Interstellar Overdrive (Mono)" (Barrett, Waters, Wright, Mason)Không lời9:41
8."The Gnome (Mono)"Barrett2:14
9."Chapter 24 (Mono)"Barrett3:53
10."The Scarecrow (Mono)"Barrett2:10
11."Bike (Mono)"Barrett3:27
Đĩa hai
STTNhan đềHát chínhThời lượng
1."Astronomy Domine (Stereo)"Barrett và Richard Wright4:14
2."Lucifer Sam (Stereo)"Barrett3:07
3."Matilda Mother (Stereo)"Wright và Barrett3:08
4."Flaming (Stereo)"Barrett2:46
5."Pow R. Toc H. (Stereo)" (Barrett, Roger Waters, Wright, Nick Mason)Barrett and Waters4:26
6."Take Up Thy Stethoscope and Walk (Stereo)" (Waters)Waters3:06
7."Interstellar Overdrive (Stereo)" (Barrett, Waters, Wright, Mason)Không lời9:40
8."The Gnome (Stereo)"Barrett2:13
9."Chapter 24 (Stereo)"Barrett3:42
10."The Scarecrow (Stereo)"Barrett2:11
11."Bike (Stereo)"Barrett3:24
Đĩa ba
STTNhan đềHát chínhThời lượng
1."Arnold Layne"Barrett2:57
2."Candy and a Currant Bun"Barrett2:45
3."See Emily Play"Barrett2:54
4."Apples and Oranges"Barrett3:05
5."Paintbox" (Wright)Wright3:45
6."Interstellar Overdrive (Take 2) (French Edit)"Không lời5:15
7."Apples and Oranges (Stereo)"Barrett3:11
8."Matilda Mother (Alternative)"Barrett3:09
9."Interstellar Overdrive (Take 6)"Không lời5:03

Thành phần tham gia

Vị trí bản xếp hạng

Năm BXH Vị trí
1967 UK Albums Chart 6[10][15]
1967 Billboard Pop Albums 131[16]
1997 UK Albums Chart 44[17]
2007 UK Albums Chart 22[17]
2007 Norwegian Record Charts 10[18]
2007 Swedish Record Charts 43[18]
2007 Swiss Charts 87[18]
2007 German Charts 48[19]
2007 Belgian Record Charts (Flanders) 28[18]
2007 Belgian Record Charts (Wallonia) 39[18]
2007 Dutch Charts 46[18]
2007 Italian Charts 16[18]
2007 Spanish Record Charts 70[18]

Tham khảo

Ghi chú

  1. ^ Họ khi đó đã được biết đến nhiều trong giới nhạc underground.

Chú thích

  1. ^ Cavanagh, John (2003). The Piper at the Gates of Dawn. New York [u.a.]: Continuum. tr. 2–3. ISBN 978-0-8264-1497-7.
  2. ^ Povey, Glenn (2007). Echoes: The Complete History of Pink Floyd . Mind Head Publishing. tr. 24–29. ISBN 978-0-9554624-0-5.
  3. ^ a b Schaffner, Nicholas (2005). Saucerful of Secrets: The Pink Floyd Odyssey . London: Helter Skelter. tr. 54–56. ISBN 1-905139-09-8.
  4. ^ Blake, Mark (2008). Comfortably Numb: The Inside Story of Pink Floyd. Cambridge, MA: Da Capo. tr. 74. ISBN 0-306-81752-7.
  5. ^ Chapman, Rob (2010). Syd Barrett: A Very Irregular Head . London: Faber. tr. 137. ISBN 978-0-571-23855-2.
  6. ^ Cavanagh 2003, p. 19
  7. ^ Schaffner 2005, p. 66
  8. ^ Chapman 2010, p. 171
  9. ^ Blake 2008, p. 88–89
  10. ^ a b “Pink Floyd | Artist | Official Charts”. officialcharts.com. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2012.
  11. ^ Browne, Ray B.; Browne, Pat (2000). The Guide to United States Popular Culture. Bowling Green, OH: Bowling Green State University Popular Press. tr. 610. ISBN 978-0-87972-821-2.
  12. ^ The Piper at the Gates of Dawn. Pink Floyd. EMI. 1967. SCX6157.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  13. ^ Palacios 2010, pp. 206–207
  14. ^ Chapman 2010, p. 170
  15. ^ Povey 2007, p. 342
  16. ^ Povey 2007, p. 343
  17. ^ a b “The Official Charts Company - The Piper At The Gates Of Dawn by Pink Floyd Search”. The Official Charts Company. ngày 6 tháng 5 năm 2013.
  18. ^ a b c d e f g h “ultratop.be – Pink Floyd – The Piper at the Gates of Dawn. ultratop.be. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2012.
  19. ^ “Pink Floyd Longplay-Chartverfolgung”. musicline.de. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2012.

Liên kết ngoài