Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phúc Trường An”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
[[Tập tin:福長安.jpg|nhỏ|Phúc Trường An]]
'''Phúc Trường An''' (chữ Mãn: ᡶᡠᠴᠠᠩᡤᠠᠨ, chữ hán: 福長安, 1760 - 1817), tự '''Thành Trai''' (誠齋), là tướng lĩnh của [[nhà Thanh]] dưới thời [[Càn Long|Thanh Cao Tông]] Càn Long.
'''Phúc Trường An''' (chữ Mãn: ᡶᡠᠴᠠᠩᡤᠠᠨ, chữ hán: 福長安, 1760 - 1817), tự '''Thành Trai''' (誠齋), là tướng lĩnh của [[nhà Thanh]] dưới thời [[Càn Long|Thanh Cao Tông]] Càn Long.



Phiên bản lúc 08:20, ngày 3 tháng 9 năm 2019

Phúc Trường An

Phúc Trường An (chữ Mãn: ᡶᡠᠴᠠᠩᡤᠠᠨ, chữ hán: 福長安, 1760 - 1817), tự Thành Trai (誠齋), là tướng lĩnh của nhà Thanh dưới thời Thanh Cao Tông Càn Long.

Cuộc đời

Ông là con trai út của Đại học sĩ Phó Hằng và là em trai của Phúc Khang An, xuất thân từ đại gia tộc Phú Sát thị, thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ. Ông gọi Càn Long Đế là dượng vì cô của ông là Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu Phú Sát thị là vợ nguyên phối của Càn Long. Cũng giống như anh trai Phúc Khang An, ông từ nhỏ được Càn Long Đế cho vào cung dưỡng dục, sau này ban đầu ông được thụ chức Lam Linh Thị vệ (藍翎侍衛) rồi thăng làm Phó Đô thống Mãn Châu Chính Hồng kỳ (副都統滿洲正紅旗)., làm việc trong Nội vụ phủ.

Năm Càn Long thứ 44 (1779), ông sang làm Phó Đô thống Hán quân Chính Hoàng kỳ (副都統漢軍正黃旗). Sang tháng 10 cùng năm, ông được điều làm Công bộ Hữu Thị lang (工部右侍郎).

Năm thứ 45 (1780), tháng giêng, ông nhận mệnh vào Quân cơ xứ học tập hành tẩu.

Năm thứ 48 (1783), ông được điều làm Hộ bộ Tả Thị lang (戶部左侍郎).

Năm thứ 49 (1784), tháng 5, nhậm chức Loan nghi vệ Chưởng vệ sự đại thần (鑾儀衛掌衛事大臣). Tháng 6 cùng năm, ông được gia ân chức Nội đại thần (內大臣).

Năm thứ 51 (1786), tháng 7, ông được thăng làm Hộ bộ Thượng thư (戶部尚書). Tháng 12 cùng năm, ông cùng với Phó Đô thống Mông Cổ Tương Hồng kỳ Khách Ninh A (喀甯阿) đổi chức với nhau.

Năm thứ 53 (1788), sau khi Đài Loan được bình định xong, ông ngày đêm không ngủ, bản thân chăm chỉ bàn bạc với các Bộ. Tháng 3 cùng năm, ông được điều từ Đô thống Mông Cổ Tương Hồng kỳ (都統蒙古鑲紅旗) sang làm Đô thống Mãn Châu Chính Hồng kỳ (都統滿洲正紅旗).

Năm thứ 54 (1789), ông tiếp quản thuế vụ của Sùng Văn Môn.

Năm thứ 55 (1790), ông cùng với Đại học sĩ Vương Kiệt, Thượng thư Bành Nguyên Thuỵ (彭元瑞), Đổng Cáo (董誥), Hồ Quý Đường (胡季堂), Tướng quân Bảo Ninh (保甯) nhận lệnh xuất quân bảo vệ biên cương. Sau đó ông được gia phong tước Thái tử Thiếu bảo (太子少保).

Năm thứ 57 (1792), sau khi bình định Khuếch Nhĩ Khách (廓爾喀), ông được liệt vào các công thần dưới thời Càn Long, tranh của ông được đem vào treo trong Tử Quang Các.

Năm thứ 59 (1794), ông được điều từ Đô thống Mãn Châu Chính Hồng kỳ (都統滿洲正紅旗) sang làm Đô thống Mãn Châu Tương Bạch kỳ (都統滿洲鑲白旗).

Năm Gia Khánh thứ 3 (1798), Thái Thượng hoàng Càn Long lệnh cho Gia Khánh Đế gia phong cho ông tước Nhất đẳng hầu (一等侯), theo lệ con cháu có quyền kế tục.

Năm thứ 4 (1799), ông bị Gia Khánh Đế buộc tội hùa theo Hòa Thân mà tham nhũng của cải, đáng lẽ bị xử trảm cùng với Hòa Thân. Nhưng Gia Khánh Đế mệnh cho ông quỳ xem cảnh Hòa Thân tự mình thắt cổ tự vẫn để làm gương. Sau đó ông bị sung vào cảnh quân trông coi Dụ lăng của Càn Long Đế, chịu sự giáo huấn của Bái Đường A (拜唐阿). Khi hết việc, ông được điều về làm Viên ngoại lang (員外郎).

Năm thứ 6 (1801), ông lấy lý do thân thể không khỏe nên thỉnh cầu hồi kinh, Gia Khánh Đế giận dữ chỉ trích ông chưa hết tâm tận lực nên cách chức của ông.

Năm thứ 11 (1806), ông nhận mệnh làm Bãi săn Tổng quản (圍場總管).

Năm thứ 12 (1807), ông được điều làm Nhiệt Hà Phó Đô thống (熱河副都統).

Năm thứ 13 (1808), kiêm chức Thự cổ Bắc khấu Đề đốc (署古北口提督).

Năm thứ 14 (1809), ông cùng Tổng binh Mã Lan Trấn (馬蘭鎮) cập chức Tổng quản Nội vụ phủ đại thần (總管內務府大臣).

Năm thứ 18 (1813), ông cùng Tổng binh Mã Lan Trấn (馬蘭鎮) cập chức Thự cổ Bắc khấu Đề đốc (署古北口提督), nhân sự kiện Thiên lý giáo, được thưởng thêm một bậc. Sau đó ông lại phụng mệnh dẫn quân hiệp trợ Tổng đốc Trực Lệ Ôn Thừa Huệ (溫承惠) tiêu diệt bình định tặc.

Năm thứ 21 (1816), ông thụ chức Phó Đô thống Mãn Châu Chính Hoàng kỳ (副都統滿洲正黃旗).

Năm thứ 22 (1817), ông qua đời, thọ 57 tuổi.

Gia quyến

Thê thiếp

Không rõ

Hậu duệ

Con trai

  1. Tích Lân (錫麟; ? - ?), được cho làm con thừa tự của Phúc Linh An - anh trai của Phúc Trường An.
  2. Đức Lặc Khắc Ni Mã (德勒克尼瑪; ? - ?).