Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Đình Khoa”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 18: Dòng 18:
|khen thưởng =
|khen thưởng =
}}
}}
'''Nguyễn Đình Khoa''' (sinh 1940) là một phi công [[Không quân Nhân dân Việt Nam]], [[Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân]].
'''Nguyễn Đình Khoa''' (sinh 1940) là một phi công [[Không quân Nhân dân Việt Nam]], [[Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân]]. Nguyên Tham mưu phó [[Quân chủng Không quân]], Phó Tổng giám đốc- Bí thư Đảng uỷ [[Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam|Tổng công ty Bay dịch vụ Việt Nam]] thuộc [[Quân chủng Phòng không – Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam|Quân chủng Phòng không- Không quân]], nay là [[Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam|Binh đoàn 18, Bộ Quốc phòng]].




Dòng 24: Dòng 24:
Ông sinh năm tại làng Vân Tụ, huyện Quỳnh Lưu (nay là phường [[Quỳnh Xuân]], thị xã [[Hoàng Mai]]), [[Nghệ An]], trong 1 gia đình nông dân. Về thế thứ, Ông là hậu duệ đời thứ 19 của Cương Quốc Công Nguyễn Xí, thuộc Đại chi 13 của nhị thế tổ Nguyễn Đồng Dần.{{fact}}
Ông sinh năm tại làng Vân Tụ, huyện Quỳnh Lưu (nay là phường [[Quỳnh Xuân]], thị xã [[Hoàng Mai]]), [[Nghệ An]], trong 1 gia đình nông dân. Về thế thứ, Ông là hậu duệ đời thứ 19 của Cương Quốc Công Nguyễn Xí, thuộc Đại chi 13 của nhị thế tổ Nguyễn Đồng Dần.{{fact}}


Năm 1957, ông nhập ngũ và được tuyển vào đào tạo lái máy bay trực thăng ở Quân chủng Không quân, làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, phục vụ lái chuyên cơ. Cuối thập niên 1950 đầu 1960, ông được giao lái loại máy bay thực thăng [[Mil Mi-4|Mi-4]] chuyên cơ, nhiều lần chở các lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1960, ông được gửi sang Liên Xô đào tạo chỉ huy và tham mưu không quân. Sau khi tốt nghiệp về nước, ông được phân công công tác tại Bộ chỉ huy Phòng không - Không quân, dưới quyền Tư lệnh [[Phùng Thế Tài]].
*Năm 1957, ông nhập ngũ và được tuyển vào đào tạo lái máy bay trực thăng ở Quân chủng Không quân, làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, phục vụ lái chuyên cơ.


*Cuối thập niên 1950 đầu 1960, ông được giao lái loại máy bay thực thăng [[Mil Mi-4|Mi-4]] chuyên cơ, nhiều lần chở các lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1960, ông được gửi sang Liên Xô đào tạo chỉ huy và tham mưu không quân. Sau khi tốt nghiệp về nước, ông được phân công công tác tại Bộ chỉ huy Phòng không - Không quân, dưới quyền Tư lệnh [[Phùng Thế Tài]].
Năm 1975, sau [[Chiến dịch Huế - Đà Nẵng]], ông được giao nhiệm vụ thu thập và tiếp quản loại máy bay [[Bell UH-1 Iroquois|UH-1A]] chiến lợi phẩm. Ông cùng các đồng đội nhanh chóng học hỏi chuyển loại để nắm vững và sử dụng loại trực thăng vũ trang này vào nhiệm vụ truy quét các nhóm thổ phỉ [[FULRO]] ở Lâm Đồng và Đak Lak. Khi [[chiến tranh biên giới Tây Nam]] nổ ra, ông lại cùng đồng đội tiếp tục chiến đấu, góp phần đánh bại lực lượng [[Khmer Đỏ]], cứu Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng (1977-1979).


*Năm 1975, sau [[Chiến dịch Huế - Đà Nẵng]], ông được giao nhiệm vụ thu thập và tiếp quản loại máy bay [[Bell UH-1 Iroquois|UH-1A]] chiến lợi phẩm. Ông cùng các đồng đội nhanh chóng học hỏi chuyển loại để nắm vững và sử dụng loại trực thăng vũ trang này vào nhiệm vụ truy quét các nhóm thổ phỉ [[FULRO]] ở Lâm Đồng và Đak Lak.
Do thành tích trong chiến đấu, ông được Chủ tịch nước [[Tôn Đức Thắng]] ký quyết định phong danh hiệu "Anh hùng quân đội nhân dân" và thăng vuợt cấp từ [[Thiếu tá]] lên [[Thượng tá]] năm 1979.


*Khi [[chiến tranh biên giới Tây Nam]] nổ ra, ông lại cùng đồng đội tiếp tục chiến đấu, góp phần đánh bại lực lượng [[Khmer Đỏ]], cứu Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng (1977-1979).
Chiến tranh kết thúc, ông lần lượt giữ các chức vụ Chỉ huy trưởng Sân bay Hoà Lạc, Phó tham mưu trưởng Quân chủng Phòng không không quân, được phong hàm [[Đại tá]] năm 1982. Sau đó, ông được chuyển sang ngạch dân sự, làm Phó giám đốc Tổng công ty bay Miền Bắc. Ông nghỉ hưu vào năm 2000.


*Do thành tích trong chiến đấu, ông được Chủ tịch nước [[Tôn Đức Thắng]] ký quyết định phong danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" và thăng vuợt cấp từ [[Thiếu tá]] lên [[Thượng tá]] năm 1979. Chiến tranh Biên giới Tây nam kết thúc, ông lần lượt giữ các chức vụ:
==Giải thưởng ==

* "Anh hùng quân đội nhân dân"
*Trung đoàn trưởng trung đoàn Không quân 916,

*Phó tham mưu trưởng Quân chủng Không quân.

*Phó Tổng giám đốc- Bí thư Đảng uỷ [[Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam|Tổng công ty Bay dịch vụ Việt Nam]] thuộc [[Quân chủng Phòng không – Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam|Quân chủng Phòng không- Không quân]], nay là [[Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam|Binh đoàn 18, Bộ Quốc phòng]].

*[[Đại tá]] năm 1982.

* Năm 2000, Ông được nghỉ hưu theo chế độ.

==Khen thưởng ==
*[[Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân]]
*[[Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước]] hạng Nhì
*[[Huân chương Bảo vệ tổ quốc]] hạng Nhất
*[[Huân chương Chiến công]] hạng Nhất, Nhì, Ba
*[[Huân chương Chiến sỹ vẻ vang]] hạng Nhất, Nhì, Ba
*[[Huy chương Quân kỳ quyết thắng]]
*Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng


==Chú thích ==
==Chú thích ==

Phiên bản lúc 08:27, ngày 2 tháng 7 năm 2020

Nguyễn Đình Khoa
Sinh1940
Quỳnh Xuân , Hoàng Mai, Nghệ An
Quốc tịch Việt Nam
Thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam
Năm tại ngũ1957–2000
Quân hàmĐại tá Không quân

Nguyễn Đình Khoa (sinh 1940) là một phi công Không quân Nhân dân Việt Nam, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nguyên Tham mưu phó Quân chủng Không quân, Phó Tổng giám đốc- Bí thư Đảng uỷ Tổng công ty Bay dịch vụ Việt Nam thuộc Quân chủng Phòng không- Không quân, nay là Binh đoàn 18, Bộ Quốc phòng.


Tiểu sử

Ông sinh năm tại làng Vân Tụ, huyện Quỳnh Lưu (nay là phường Quỳnh Xuân, thị xã Hoàng Mai), Nghệ An, trong 1 gia đình nông dân. Về thế thứ, Ông là hậu duệ đời thứ 19 của Cương Quốc Công Nguyễn Xí, thuộc Đại chi 13 của nhị thế tổ Nguyễn Đồng Dần.[cần dẫn nguồn]

  • Năm 1957, ông nhập ngũ và được tuyển vào đào tạo lái máy bay trực thăng ở Quân chủng Không quân, làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, phục vụ lái chuyên cơ.
  • Cuối thập niên 1950 đầu 1960, ông được giao lái loại máy bay thực thăng Mi-4 chuyên cơ, nhiều lần chở các lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1960, ông được gửi sang Liên Xô đào tạo chỉ huy và tham mưu không quân. Sau khi tốt nghiệp về nước, ông được phân công công tác tại Bộ chỉ huy Phòng không - Không quân, dưới quyền Tư lệnh Phùng Thế Tài.
  • Năm 1975, sau Chiến dịch Huế - Đà Nẵng, ông được giao nhiệm vụ thu thập và tiếp quản loại máy bay UH-1A chiến lợi phẩm. Ông cùng các đồng đội nhanh chóng học hỏi chuyển loại để nắm vững và sử dụng loại trực thăng vũ trang này vào nhiệm vụ truy quét các nhóm thổ phỉ FULRO ở Lâm Đồng và Đak Lak.
  • Do thành tích trong chiến đấu, ông được Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ký quyết định phong danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" và thăng vuợt cấp từ Thiếu tá lên Thượng tá năm 1979. Chiến tranh Biên giới Tây nam kết thúc, ông lần lượt giữ các chức vụ:
  • Trung đoàn trưởng trung đoàn Không quân 916,
  • Phó tham mưu trưởng Quân chủng Không quân.
  • Năm 2000, Ông được nghỉ hưu theo chế độ.

Khen thưởng

Chú thích

1^ “Máy bay MIG21 trong kháng chiến chống Mỹ - VnExpress”. VnExpress - Tin nhanh Việt Nam. Truy cập 10 tháng 2 năm 2015.

2^ Nguyễn Minh Tâm (chủ biên). Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2008. trang 172.

3^ Thông tin điện tử Quân đội nhân dân Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam _ Tin Tức Quân đội Nhân Dân Việt Nam.