Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hạc cầm”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Nhotuo (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
→‎Lịch sử: Việt-hóa
Dòng 3: Dòng 3:


== Lịch sử ==
== Lịch sử ==
[[Tập tin:Harp Player in a Pavillion - Qiu Ying.jpg|thumb|300px|Tranh vẽ về một phụ nữ Trung Quốc chơi không hầu]]
[[Tập tin:Harp Player in a Pavillion - Qiu Ying.jpg|thumb|300px|Tranh Trung Hoa cảnh người đàn chơi "không hầu"]]
Nguyên thủy của hạc cầm được cho là bắt nguồn từ ý tưởng của cây [[cung]]. Trong thời cổ, chiếc hạc cầm được phản ánh trong các nền văn hóa, loại nhạc cụ gắn liền với những câu chuyện thần tiên, thường thấy nhất là hình ảnh những [[thiên sứ|thiên thần]] cầm đàn hạc và hát múa kết hợp với khung cảnh tráng lệ của cung điện, đền đài, nơi mà các vị [[vua]] [[chúa]], giới [[quý tộc]] thời cổ đại thường tụ tập, vui chơi [[ca hát]]..
Tương truyền hạc cầm bắt ý từ cây [[cung]] bẻ cong gắn nhiều dây. Thời cổ đại, hạc cầm là nhạc cụ gắn liền với những câu chuyện thần tiên với [[thiên sứ|thiên thần]] bay trên không, tay ôm đàn hạc và hát múa giữa đền đài tráng lệ của [[vua]] [[chúa]] để giới [[quý tộc]] thưởng ngoạn.


Những chiếc đàn hạc lâu đời nhất được tìm thấy đã được phát hiện trong đống đổ nát từ thời kỳ [[Sumer]] cổ đại ở miền nam [[Iraq]]. Hạc cầm được biết đến như một trong những loại nhạc cụ cổ nhất của loài người,thể ra đời tại [[Ai Cập]] vào khoảng 6.000 năm trước Công nguyên<ref>{{chú thích web | url = http://suckhoedinhduong.nld.com.vn/127647p0c1020/canh-hac-co-don.htm | tiêu đề = Cánh hạc cô đơn Văn hóa | author = | ngày = | ngày truy cập = 7 tháng 6 năm 2014 | nơi xuất bản = Người Lao động | ngôn ngữ = }}</ref> hay ít nhất là 4000 năm trong thời kỳ [[Babilon]] và [[Lưỡng Hà]]. Hạc cầm đã xuất hiện trong những bức chạm trổ trên nấm mồ của [[Pharaon|Pharaoh]] [[Ramesses III|Ramses III]] (1198-1166 Trước Công nguyên) những đồ tế lễ từ năm 2900 trước công nguyên của nước Iraq. Từ khi loại nhạc cụ này phát triển ở Các [[quốc gia Hồi giáo]], nó lan dần từ phương bắc của châu Phi tới [[Tây Ban Nha]] trong thời kỳ thế kỷ thứ 8, rồi qua hầu hết các nước ở châu Âu.
Những cây đàn hạc lâu đời nhất nay còn dấu tích xuất phát từ di chỉ [[Sumer]] cổ đại ở miền nam [[Iraq]]. Đây một trong những loại nhạc cụ cổ nhất của loài người, có lẽ ra đời tại [[Ai Cập]] vào khoảng 6.000 năm [[trước Công nguyên]]<ref>{{chú thích web | url = http://suckhoedinhduong.nld.com.vn/127647p0c1020/canh-hac-co-don.htm | tiêu đề = Cánh hạc cô đơn Văn hóa | author = | ngày = | ngày truy cập = 7 tháng 6 năm 2014 | nơi xuất bản = Người Lao động | ngôn ngữ = }}</ref> hay trễ nhất là 4000 năm trước Công nguyên thời kỳ [[Babilon]] và [[Lưỡng Hà]]. Những mảng [[điêu khắc]] trên lăng mộ [[Pharaon|Pharaoh]] [[Ramesses III|Ramses III]] (1198-1166 Trước Công nguyên) đã thấy hạc cầm. Cây đàn này cũng mặt trong các vật tự khí chôn ở Iraq khoảng 2900 trước Công nguyên. Từ [[Trung Đông]] hạc cầm theo chân làn sóng [[Hồi giáo]] lan sang [[Bắc Phi]] rồi tới [[Tây Ban Nha]] vào thế kỷ thứ 8. Từ đó hạc cầm du nhập châu Âu.


Ở [[Châu Á]], đàn [[:en:konghou|không hầu]] là cây đàn hạc Trung Quốc cổ đại. Có giả thiết cho rằng nhạc cụ này đã tuyệt chủng vào thời [[nhà Minh]]. Nó đã được hồi sinh trong thế kỷ 20 như một cây đàn hạc đôi; phiên bản hiện đại của nhạc cụ không giống với nhạc cổ, nhưng hình dạng của nó tương tự như đàn hạc hòa nhạc phương Tây. Theo khảo cứu, đàn này lưu truyền đến nay đã hơn 2.000 năm. Ngoài sử dụng trong giàn nhạc cung đình ra, đàn không hầu còn lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Thế nhưng, cây đàn cổ xưa này từ sau thế kỷ 14 nó dần bị quên lãng cho tới khi được khôi phục lại vào đầu thế kỷ 20 trong nhã nhạc cung đình Trung Hoa, độc tấu hay hoà tấu cùng nhạc cụ phương Tây.
Ở [[Châu Á]], đàn [[:en:konghou|không hầu]] là cây đàn hạc Trung Quốc cổ đại. Có giả thiết cho rằng nhạc cụ này đã tuyệt chủng vào thời [[nhà Minh]]. Nó đã được hồi sinh trong thế kỷ 20 như một cây đàn hạc đôi; phiên bản hiện đại của nhạc cụ không giống với nhạc cổ, nhưng hình dạng của nó tương tự như đàn hạc hòa nhạc phương Tây. Theo khảo cứu, đàn này lưu truyền đến nay đã hơn 2.000 năm. Ngoài sử dụng trong giàn nhạc cung đình ra, đàn không hầu còn lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Thế nhưng, cây đàn cổ xưa này từ sau thế kỷ 14 nó dần bị quên lãng cho tới khi được khôi phục lại vào đầu thế kỷ 20 trong nhã nhạc cung đình Trung Hoa, độc tấu hay hoà tấu cùng nhạc cụ phương Tây.

Phiên bản lúc 01:15, ngày 7 tháng 6 năm 2021

Tranh vẽ về một chiếc hạc cầm

Hạc cầm hay còn được gọi bằng nhiều tên khác như đàn Harp, đàn Harpe, đàn hạc, không hầu là một nhạc cụ thuộc bộ dây có số dây rất lớn tương đương piano và từng thông dụng ở châu Phi, châu Âu, châu Mỹ, châu Á và là một trong những dụng cụ âm nhạc có nguồn gốc lâu đời nhất trên thế giới.[1] Đàn hạc trong một số nền văn hóa được xem là tương trưng cho âm nhạc.

Lịch sử

Tranh Trung Hoa có cảnh người đàn bà chơi "không hầu"

Tương truyền hạc cầm bắt ý từ cây cung bẻ cong và gắn nhiều dây. Thời cổ đại, hạc cầm là nhạc cụ gắn liền với những câu chuyện thần tiên với thiên thần bay trên không, tay ôm đàn hạc và hát múa giữa đền đài tráng lệ của vua chúa để giới quý tộc thưởng ngoạn.

Những cây đàn hạc lâu đời nhất nay còn dấu tích xuất phát từ di chỉ Sumer cổ đại ở miền nam Iraq. Đây một trong những loại nhạc cụ cổ nhất của loài người, có lẽ ra đời tại Ai Cập vào khoảng 6.000 năm trước Công nguyên[2] hay trễ nhất là 4000 năm trước Công nguyên thời kỳ BabilonLưỡng Hà. Những mảng điêu khắc trên lăng mộ Pharaoh Ramses III (1198-1166 Trước Công nguyên) đã thấy hạc cầm. Cây đàn này cũng có mặt trong các vật tự khí chôn ở Iraq khoảng 2900 trước Công nguyên. Từ Trung Đông hạc cầm theo chân làn sóng Hồi giáo lan sang Bắc Phi rồi tới Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ 8. Từ đó hạc cầm du nhập châu Âu.

Châu Á, đàn không hầu là cây đàn hạc Trung Quốc cổ đại. Có giả thiết cho rằng nhạc cụ này đã tuyệt chủng vào thời nhà Minh. Nó đã được hồi sinh trong thế kỷ 20 như một cây đàn hạc đôi; phiên bản hiện đại của nhạc cụ không giống với nhạc cổ, nhưng hình dạng của nó tương tự như đàn hạc hòa nhạc phương Tây. Theo khảo cứu, đàn này lưu truyền đến nay đã hơn 2.000 năm. Ngoài sử dụng trong giàn nhạc cung đình ra, đàn không hầu còn lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Thế nhưng, cây đàn cổ xưa này từ sau thế kỷ 14 nó dần bị quên lãng cho tới khi được khôi phục lại vào đầu thế kỷ 20 trong nhã nhạc cung đình Trung Hoa, độc tấu hay hoà tấu cùng nhạc cụ phương Tây. Đàn không hầu lưu hành vào thời cổ Trung Quốc chủ yếu là đàn nằm và đàn đứng. Đàn không hầu có hai hàng dây, mỗi hàng 36 dây, mỗi dây đều do trụ hình chữ nhật đỡ trên hộp đàn. Do hai hàng dây đàn đồng âm với nhau, khi gảy bản nhạc có giai điệu nhanh và âm rộng, rất tiện lợi, nó có thể gảy cùng lúc bằng hai tay, lại có thể dạo và đệm nhạc trong tầm âm vừa, là điều mà các loại nhạc cụ khác khó mà so sánh được. Để mà dễ so sánh giữa không hầu và đàn hạc phương Tây thì âm sắc giữa hai loại đàn này khác nhau hoàn toàn.

Không hầu Trung Hoa cũng được du nhập, sử dụng vào thời cổ đại ở Hàn Quốc, nơi nó được gọi là gonghu (hangul: 공후; hanja: 箜篌), nhưng nó không còn được sử dụng phổ biến nữa. Có ba kiểu gonghu sau:

  • Sogonghu (hangul: 소공 후; hanja: 小箜篌; nghĩa đen là "đàn hạc nhỏ")
  • Sugonghu (hangul: 수공후; hanja: 豎箜篌; nghĩa đen là "đàn hạc dọc")
  • Wagonghu (hangul: 와공후; hanja: 臥箜篌; nghĩa đen là "đàn hạc nằm ngang")

Tương tự, kudaragoto (百済琴/くだらごと), còn được gọi là kugo (箜篌/くご) của Nhật Bản đã được sử dụng trong một số buổi biểu diễn Togaku (nhạc Tang) trong thời kỳ Nara, nhưng dường như đã tuyệt chủng trong thế kỷ thứ 10. Nó gần đây đã được hồi sinh ở Nhật Bản, và nhà soạn nhạc Nhật Bản Mamoru Fujieda đã sáng tác cho nó.

Sugawara Tomoko đã "hồi sinh" một cây đàn kugo có thể chơi được với nghệ sĩ Bill Campbell và nhận được đề cử Giải thưởng âm nhạc độc lập cho album năm 2010 của bà là Along the Silk Road, chơi các tác phẩm truyền thống và mới được viết cho kugo.

Người Altai ở Mông Cổ có một loại đàn hạc tương tự, gọi là Altai harp. Thiết kế của nó là đầu con sơn dương sừng cong, thân đàn nằm ngang loại nhỏ có 6 dây, lớn có 14 dây và dây đàn được nối từ khoảng giữ của sừng sơn dương xuống thân.

Đặc điểm cấu tạo

Một nhạc công gảy đàn không hầu hiện đại

Đàn hạc là đàn gảy. Đàn hạc thường xuất hiện trong dàn nhạc giao hưởng hoặc đệm cho hát trong nhạc thính phòng. Giá đàn hạc rất đắt. Để chế tác được một cây đàn hạc đòi hỏi rất nhiều công phu mới chế tác được. Theo Thần thoại Hy Lạp, đàn hạc được tạo ra khi dùng ruột bò tạo thành dây trên khung gỗ.

Hạc cầm thì có nhiều kiểu, kích cỡ và khối lượng khác nhau, nhưng có 3 loại chính: loại hộp, loại uốn cong và loại dây. Hạc cầm cao từ 60 cm tới 180 cm, có từ 22 tới 47 sợi dây đàn. Kiểu nhỏ thì bạn có thể đặt trên đùi trong khi chơi, còn kiểu lớn phải đặt dưới đất. Dây đàn của hạc cầm được làm riêng biệt bằng dây gân, kẽm, ni lông hay trộn lẫn với nhau.

Tiếng Hạc cầm giống với tiếng guitar, nhưng âm sắc của giai điệu đa dạng và mềm mại hơn. Các nghệ sĩ thường kết hợp hạc cầm với sáo. Để học được, ngoài năng khiếu âm nhạc và lòng say mê, còn cần phải có người dài (thân cao), cánh tay dài, ngón tay khỏe, thịt tay chắc (dùng thịt đầu ngón tay để bấm, không phải dùng móng như guitar).

Đàn Không hầu đầu phượng (phượng thủ không hầu) được làm phỏng theo đàn Không Hầu đứng. Hình bên ngoài của nó tương đối giống đàn Hạc phương Tây, nhưng khác ở chỗ là đàn Không hầu có hai hàng dây, mỗi hàng 36 dây, mỗi dây đều có con nhạn tương tự cổ tranh đỡ trên hộp đàn còn cột sống của đàn có phần đầu chim phượng hoàng cho nên loạn đàn này được gọi là đàn Không Hầu đầu phượng trong khi Hạc cầm phương Tây không có và chỉ là hàng dây đơn. Khi xưa dây không hầu làm bằng gân bò hay tơ tằm bện, ngày nay được làm bằng ni lông bọc thép.

Âm sắc của đàn Không Hầu du dương trong sáng, âm vực rộng, sức thể hiện của nó hết sức phong phú, vừa có thể gảy nhạc dân tộc Trung Quốc, lại có thể gảy các bản nhạc của đàn Hạc phương Tây. Do hai hàng dây đàn đồng âm với nhau, khi gảy bản nhạc có giai điệu nhanh và âm rộng, rất tiện lợi, nó có thể gảy cùng lúc bằng hai tay, lại có thể dạo và đệm nhạc trong tầm âm vừa, mà các lọai nhạc cụ khác khó mà so sánh được. Ngoài ra, đàn Không hầu rất độc đáo về các thủ pháp gảy như nhấn dây đàn, trượt dây, vê dây và rung âm.

Một loại không hầu khác của Trung Quốc là loan cầm (弯琴) có hình dáng trông như một chiếc thuyền rồng. Hình dáng nó rất giống với đàn Saung-gauk của Myanmar. Một dị bản khác của loan cầm có dạng là hạc cầm 4 dây được tìm thấy trong bức tranh Phi thiên tán hoa ở hang Mạc Cao, tỉnh Đôn Hoàng, Trung Quốc.

Tham khảo

  • Lucia Bova, L'arpa moderna. La scrittura e la notazione, lo strumento e il repertorio dal '500 alla contemporaneità, preface by Luis de Pablo, Suvini Zerboni, Milano, 2008. ISBN 978-88-900691-4-7
  • "The Anglo Saxon Harp", Spectrum, Vol. 71, No.2 (Apr., 1996), pp 290–320.
  • "The Origins of the Clairsach or Irish Harp", Musical Times, Vol. 53, No 828 (Feb 1912), pp 89–92.
  • Alasdair Ross discusses that all the Scottish harp figures were copied from foreign drawings and not from life, in "'Harps of Their Owne Sorte'? A Reassessment of Pictish Chordophone Depictions", Cambrian Medieval Celtic Studies 36, Winter 1998.
  • Snyder's Medieval Art, 2nd ed, p. 32. Luttikhuizen and Verkerk.
  • Courteau, Mona-Lynn. "Harp". In J. Shepherd, D. Horn, D. Laing, P. Oliver and P. Wicke (Eds.), The Continuum Encyclopedia of Popular Music of the World, Vol. 2, 2003, các trang 427–437.
  • Montagu, Jeremy (2002). “Harp”. Trong Alison Latham (biên tập). The Oxford Companion to Music. London: Oxford University Press. tr. 564. ISBN 0198662122. OCLC 59376677.
  • Rensch, Roslyn (2007/1989). Harps and Harpists, revised (2nd) edition. Đại học Indiana. ISBN 0-253-34903-6.

Chú thích

  1. ^ “Bọt biển giống đàn hạc - VnExpress”. VnExpress - Tin nhanh Việt Nam. Truy cập 7 tháng 6 năm 2014.
  2. ^ “Cánh hạc cô đơn Văn hóa”. Người Lao động. Truy cập 7 tháng 6 năm 2014.