Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cao Lỗ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Bỏ những truyền thuyết không nguồn, giọng văn NPOV
Dòng 21: Dòng 21:


Sau khi Trọng Thủy biết được bí mật phòng thủ của An Dương Vương và về mách cho vua cha, [[Triệu Đà]] mang quân sang đánh [[Âu Lạc]]. An Dương Vương thua chạy. Quân Triệu đuổi theo. Cao Lỗ biết tin, ra đón đường chặn đánh quân Triệu cho vua chạy thoát nhưng do Mỵ Châu tin lời của Trọng Thủy, rải lông ngỗng theo sau để Trọng Thủy lần theo nên cả hai đã tử trận.
Sau khi Trọng Thủy biết được bí mật phòng thủ của An Dương Vương và về mách cho vua cha, [[Triệu Đà]] mang quân sang đánh [[Âu Lạc]]. An Dương Vương thua chạy. Quân Triệu đuổi theo. Cao Lỗ biết tin, ra đón đường chặn đánh quân Triệu cho vua chạy thoát nhưng do Mỵ Châu tin lời của Trọng Thủy, rải lông ngỗng theo sau để Trọng Thủy lần theo nên cả hai đã tử trận.

Cao Lỗ là vị tướng toàn tài, đã chế ra cỗ máy bắn một lúc cả nghìn mủi tên bọc đồng hoặc sắt. Cỗ máy này không phải một người cầm trên tay được mà phải là nhiều người khiêng di chuyển cực nhanh, dùng sức nặng thân người để kéo sức căng, khi buông ra là cả nghìn mủi tên nhỏ bay lên không trung rơi xuống đầu quân địch. Cao Lỗ đã chế ra rất nhiều cỗ máy như thế và giấu vào nhà kho bí mật có quân lính canh phòng cẩn mật. Cao Lỗ cũng là người thiết kế thi công thành CỔ Loa độc đáo, rất khó bị xâm nhập hoặc đánh úp. Cao Lỗ cũng là vị tướng chỉ huy hạm đội thủy binh của triều đình.

Cao Lỗ ngăn cản quyết liệt việc hôn nhân của Trọng Thủy và Mỵ Châu vì biết đó là gian kế. Nhưng vì Mỵ Châu si tình Trọng Thủy đẹp trai nên ép vua cha nhận lời. Thục Phán chìu con gái, cãi với Cao Lỗ rằng Trọng Thủy chấp nhận về đây ở rễ tức là Triệu Đà có thiện chí đưa con trai sang làm con tin, nếu Triệu Đà trở mặt thì mình giết Trọng Thủy liền. Triều thần bị mua chuộc cũng hùa theo chống lại ý kiến của Cao Lỗ.

Cuối cùng thì cuộc hôn nhân đã diễn ra, Cao Lỗ bị thất sủng. Ông bỏ đi thật xa xuống miền Nam và dừng chân lại Diễn Châu Nghệ An. Tại đấy ông dạy võ và dạy nghề rèn đúc sắt cho dân địa phương. Người ta gọi ông là ông tổ ngành rèn sắt của Việt Nam. Thật ra phải gọi ông là ông tổ ngành công nghệ quốc phòng mới đúng. Ông cũng dạy dân làng bắn cung nỏ loại cầm tay nhỏ nhỏ.

Trọng Thủy ở trong triều đình tiếp tục mua chuộc dần dần các quan tướng.Vài ba tháng thì Triệu Đà lại cho quân sĩ đem sang cơ man ngọc ngà châu báu để Trọng Thủy mua chuộc toàn bộ triều đình. Cho đến cái ngày Trọng Thủy mua chuộc luôn các tướng quân đội, tướng giữ kho nỏ thần, và đến tận nơi quan sát các cỗ máy vũ khí kinh thiên động địa đó. Trọng Thủy lập tức cho người về báo với Triệu Đà là tình hình đã sẵn sàng cho một cuộc tấn công quyết liệt. Triệu Đà hỏi Cao Lỗ đã chết chưa. CHưa. Vậy là Triệu Đà không chịu tấn công, không dám tấn công. Trọng Thủy phải bàn tính với các quan lớn trong triều là làm sao giết Cao Lỗ.

Các quan góp ý là Trọng Thủy sẽ dụ Mỵ Châu lấy ấn tín của vua cha giả làm chiếu chỉ triệu Cao Lỗ về kinh. Khi sứ giả tìm đến Diễn Châu đọc chiếu chỉ của An Dương Vương gọi Cao Lỗ về kinh, Cao Lỗ than trời vì biết số mình đã hết, chia tay vợ con gia quyến rồi lên đường. Đến ngang vùng núi hẹp ở Ninh Bình, Trọng Thủy bố trí mấy cỗ máy nỏ thần bắn chết Cao Lỗ và toàn bộ sứ giả đi theo. Cao Lỗ bị giết bởi chính vũ khí do mình chế tạo nên.

Trọng Thủy xin phép An Dương Vương về thăm cha là Triệu Đà thời gian ngắn. Khi Trọng Thủy vừa rời khỏi kinh thành Cổ Loa chẳng bao lâu thì quân của Triệu Đà ồ ạt kéo sang tấn công dữ dội. Vua hoảng hốt ra lệnh cho các tướng chống trả, nhưng tất cả im lặng và tránh né đâu mất. Đến khi giặc bao vây tứ bề, Vua chỉ còn nhảy lên lưng ngựa chạy trốn, dắt theo Mỵ Châu đang đầm đìa nước mắt.
Chạy đến Thanh Hóa, sức đã kiệt, Vua được thần Kim Quy cho biết kẻ phản bội chính là người ngồi sau lưng. Vua chém đầu Mỵ Châu rồi nhảy xuống biển tự trầm. Trọng Thủy theo sau đoàn quân của Triệu Đà trở lại Cổ Loa không tìm thấy Mỵ Châu, đi theo vết lông ngỗng từ chiếc áo mà chính Trọng Thủy đã tặng rồi tìm đến Thanh Hóa, đem xác vợ về chôn cất.

Đây là lần thứ nhất toàn bộ triều đình nước ta bị mua chuộc gần sạch. Lần thứ hai là lần quân Nguyên sắp tấn công. Trần Ích Tắc cũng mua chuộc được rất nhiều quan trong triều đi theo quân Nguyên.
Lần thứ ba là lúc Pháp chuẩn bị xâm chiếm Việt Nam, những giáo dân đã giúp Pháp mua chuộc rất nhiều quan lại triều đình Huế. Có thể lần thứ tư quanh quẩn đâu đây, ta phải hết sức cẩn thận, kêu gọi người thân của mình đừng vì những lời hứa hão huyền của ngoại bang mà cam tâm ký kết làm cho giặc để trở thành kẻ phản bội quê hương.


== Các thuyết liên quan tới nguồn gốc, phả hệ Cao Lỗ ==
== Các thuyết liên quan tới nguồn gốc, phả hệ Cao Lỗ ==

Phiên bản lúc 11:55, ngày 27 tháng 4 năm 2012

Cao Lỗ (? - 179 trước Công nguyên) (còn gọi là Cao Nỗ, Cao Thông, Đô Lỗ[1], Thạch Thần, hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần) là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê quán tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

Tương truyền, ông là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát) mà còn được gọi là nỏ thần. Ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô và là người được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa.

Cao Lỗ là một anh hùng sáng tạo văn hóa, là biểu tượng của trí tuệ, sức mạnh Việt Nam ngay từ buổi đầu dựng nước, dựng đô.

Tại kì họp ngày 5 tháng 8 năm 2005, Hội đồng Nhân dân Thành phố Hà Nội đã quyết định lấy tên ông để đặt tên cho một con đường ở trung tâm huyện Đông Anh[2]

Cha đẻ nỏ Thần

Cao Lỗ là người sáng chế ra nỏ liên châu (nỏ thần): bắn một lần được nhiều phát mà các mũi tên đều bịt đồng sắc nhọn. Sử sách cũ đã thần thánh hóa gọi là: "Linh Quang Thần Cơ". Sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng: Cứ đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là chúng không dám đến gần.

Cao Lỗ huấn luyện cho hàng vạn binh sỹ ngày đêm tập bắn nỏ. Vua An Dương Vương thường xem tập bắn trên "Ngự xa đài", dấu vết này nay vẫn còn (góc đông bắc ngoài thành nội).

Là người phát minh ra nỏ thần, lại có tài bắn nỏ nên dân gian thường gọi ông là Ông Nỏ.

Khi Triệu Đà cho quân xâm lược Âu Lạc, chúng đã bị các tay nỏ liên châu bắn tên ra như mưa, thây chết đầy nội và phải lui binh. Đương thời, nỏ liên châu trở thành thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc.

Qua đời

Triệu Đà bèn lập xảo kế thông gia cho con trai là Trọng Thủy lấy con gái An Dương VươngMỵ Châu. Cao Lỗ phản đối, khuyên vua không nên nhận, nhưng An Dương Vương không nghe còn nghe lời dèm pha của Lạc hầu. Cao Lỗ dần dần bị vua xa lánh, ông bỏ đi tìm nơi ở ẩn.

Sau khi Trọng Thủy biết được bí mật phòng thủ của An Dương Vương và về mách cho vua cha, Triệu Đà mang quân sang đánh Âu Lạc. An Dương Vương thua chạy. Quân Triệu đuổi theo. Cao Lỗ biết tin, ra đón đường chặn đánh quân Triệu cho vua chạy thoát nhưng do Mỵ Châu tin lời của Trọng Thủy, rải lông ngỗng theo sau để Trọng Thủy lần theo nên cả hai đã tử trận.

Các thuyết liên quan tới nguồn gốc, phả hệ Cao Lỗ

  • Có thuyết[3] cho rằng cái tên Cao Lỗ không phải là họ Cao, mà do gắn với đá thạch, núi đá, rằng Cao Lỗ là một vị thần địa phương - thần Đá - đã được thu phục trong quá trình tiến xuống miền đồng bằng của An Dương Vương, và trở thành một vị tướng của nhà vua. Khi chết, ông trở thành thần bảo hộ cho vùng Việt Trì, Bạch Hạc.

Nhà Trần đã sắc phong cho ông là “Quả nghị Cương chính Uy huệ Chính thần Đại vương”.

  • Theo GS. Cao Thế Dung [4],
"họ Cao ở Nghệ An, theo thể phả, thủy tổ là ông Cao Lỗ, gốc Ngòi Sảo, Bắc Ninh, người đã chế tạo ra nỏ liễn mà Triệu Đà gọi là nỏ thần. Họ Cao di ra Thăng Long rồi từ Thăng Long vào Nghệ An, sau một hệ trở ra Sơn Nam (Nam Định) định cư tại đây.
"Thám Hoa Cao Quýnh đậu Tiến sĩ (cập đệ, đệ tam danh) triều Lê Thánh Tông là hậu duệ của Thủy tổ Cao Lỗ"

Đền thờ Cao Lỗ

  • Theo dân gian, khi bị thương nặng ở cổ, tướng quân Cao Lỗ đã buộc lại và thúc ngựa chạy tới Ái Mộ (xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm) nghỉ một lát rồi lại chạy tiếp về vùng Bình Than, Lục Đầu được ít lâu sau thì mất.

Tham khảo

  1. ^ http://www.huyenthoai.org/Danhnhan/CaoNo.html
  2. ^ Phố mới: Đường Cao Lỗ
  3. ^ Tục thờ đá trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam (Số 1(91)/04)
  4. ^ Mấy nét về cội nguồn - Văn minh văn hóa Việt Nam
  • 101 chuyện xưa tích cũ (Việt Nam - Trung Quốc)- Đặng Việt Thủy - NXB Quân đội nhân dân 2005.

Liên kết ngoài