Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chó sói Tasmania”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 58: Dòng 58:
|2=''[[Dasyurus]]'' [[File:Dasyurus viverrinus Gould white background.jpg|60 px]]}} }} }} }} }}
|2=''[[Dasyurus]]'' [[File:Dasyurus viverrinus Gould white background.jpg|60 px]]}} }} }} }} }}


==Sinh thái==
== Tuyệt chủng ==
Chó sói túi có lẽ thích các khu rừng bạch đàn khô, vùng ngập nước và đồng cỏ của lục địa Úc.[32] Các bức tranh trên đá của người bản địa ở đây chỉ ra rằng chó sói túi sinh sống ở khắp lục địa Úc và New Guinea. Bằng chứng về sự tồn tại của loài vật này ở Úc đến từ một xác chết khô được phát hiện trong một hang động ở [[đồng bằng Nullarbor]] thuộc Tây Úc năm 1990; [[định tuổi bằng cacbon]] tiết lộ mẫu vật này đã khoảng 3.300 năm tuổi.[40] Các dấu chân hóa thạch được kiểm tra gần đây cũng cho thấy phạm vi phân bố lịch sử của loài này trên [[đảo Kangaroo]].[41]
Chó sói Tasmania bị săn bắn gần như tuyệt chủng trong hàng trăm năm sau khi người châu Âu đến định cư trên hòn đảo ở nam lục địa Úc. Ban đầu họ chưa biết và sợ loài thú này, mặc dù chúng sống ẩn dật trong tự nhiên và muốn tránh con người.


Ở Tasmania, chúng ưa thích các khu rừng gỗ của vùng trung du và vùng đất hoang ven biển, những nơi mà sau này trở thành tâm điểm sự chú ý của người dân định cư Anh tìm kiếm các vùng đất để chăn thả gia súc.[42] Các đường sọc có thể đã giúp con vật ngụy trang trong môi trường rừng rậm,[29] nhưng đặc điểm này cũng có thể phục vụ cho mục đích nhận dạng cá thể.[43] Một con chó sói túi điển hình có diện tích lãnh thổ vào khoảng từ 40 đến 80 km^ (15 đến 31 dặm vuông).[30] Chúng dường như chỉ loanh quanh trong phạm vi nhà của chúng mà không có tính lãnh thổ; các nhóm lớn không phải là gia đình đôi khi được quan sát đi cùng nhau.[44]
Vào thập niên 1800, các nông dân buộc tội chó sói có túi là tấn công cừu. Vì thế, họ đã dùng đến súng săn, thuốc độc, hơi ngạt và bẫy để tiêu diệt chúng. Ý muốn của con người được toại nguyện, loài này đã biến mất chỉ trong vòng 70 năm. Con chó sói Tasmania cuối cùng chết trong một vườn thú ở Tasmania vào năm 1936, mặc dù sau đó họ phát hiện thêm một số cá thể chó sói hoang dã.

==Tập tính==
Chúng ta biết rất ít về hành vi của loài chó sói túi. Một vài quan sát được ghi lại từ những con vật bị giam cầm, nhưng còn khá hạn chế, chỉ có những bằng chứng giai thoại còn tồn tại về tập tính của loài này trong hoang dã. Hầu hết các quan sát được thực hiện vào ban ngày trong khi hổ Tasmania là loài sống về đêm. Những quan sát này, được thực hiện trong thế kỷ XX, có thể không điển hình vì chúng là một loài đang dưới áp lực chọn lọc và sẽ sớm dẫn đến sự tuyệt chủng của chúng. Một số đặc điểm đã được ngoại suy từ hành vi của người họ hàng gần gũi, [[quỷ Tasmania]].

Chó sói túi là loài đi săn về đêm và vào hoàng hôn, dành hàng giờ ban ngày trong các hang động nhỏ, thân cây rỗng hoặc tổ làm từ cành cây, vỏ cây hoặc lá dương xỉ. Chúng có xu hướng rút lui về những ngọn đồi và rừng để trú ẩn vào ban ngày và săn mồi ở các đồng hoang vào ban đêm. Các nhà quan sát ban đầu lưu ý rằng con vật này rất nhút nhát và bí mật, chúng nhận thức được sự hiện diện của con người và thường tránh tiếp xúc, tuy vậy đôi khi chúng cũng tỏ ra khá tò mò.[45] Lúc bấy giờ, dân định cư ở đây rất kỳ thị con vật do bản chất "dữ dội" của chúng; điều này có thể là do mối đe dọa của chúng đối với nền nông nghiệp.[46]

==Tuyệt chủng==
[[File:Bagged thylacine.jpg|thumb|upright|Một con chó sói túi bị treo, năm 1869]]
Châu Úc đã mất hơn 90% các loài động vật có xương sống trên cạn lớn vào khoảng 40.000 năm trước, với những ngoại lệ đáng chú ý là [[chuột túi]] và chó sói túi.<ref name="manusia"/> Một tờ giấy năm 2010 đã xem xét vấn đề này và đưa ra kết luận rằng con người có khả năng là một trong những yếu tố chính dẫn đến sự tuyệt chủng của nhiều loài ở Úc, cùng với thay đổi khí hậu và hoạt động cháy rừng đóng vai trò hình thành điều kiện, song các tác giả của nghiên cứu đã cảnh báo rằng giải thích chỉ từ một yếu tố có thể là quá đơn giản.<ref name="manusia">{{cite journal|last1=Prideaux|first1=Gavin J.|last2=Gully|first2=Grant A.|last3=Couzens|first3=Aidan M. C.|last4=Ayliffe|first4=Linda K.|last5=Jankowski|first5=Nathan R.|last6=Jacobs|first6=Zenobia|last7=Roberts|first7=Richard G.|last8=Hellstrom|first8=John C.|last9=Gagan|first9=Michael K.|date=December 2010|title=Timing and dynamics of Late Pleistocene mammal extinctions in southwestern Australia|journal=Proceedings of the National Academy of Sciences|volume=107|issue=51|pages=22157–22162|doi=10.1073/pnas.1011073107|pmc=3009796|pmid=21127262|first10=Lindsay M.|last10=Hatcher|bibcode=2010PNAS..10722157P}}</ref> Bản thân loài chó sói túi đã đứng bên bờ vực tuyệt chủng trên lục địa Úc vào khoảng 2.000 năm trước.<ref name="IUCN" /> Tuy nhiên, các bằng chứng đáng tin cậy về sự sống sót của chó sói túi ở Nam Úc (mặc dù chỉ giới hạn ở 'các khu định cư mỏng' và [[dãy núi Flinder]]) và [[New South Wales]] (Núi Blue) vẫn tồn tại vào cuối những năm 1830, nguồn được lấy từ cả người bản địa và người châu Âu.<ref name="P2324">[[Thylacine#Paddle|Paddle (2000)]], pp. 23–24.</ref Sự tuyệt chủng tuyệt đối là do sự cạnh tranh vớ [[thổ dân Úc]] và sự xâm lăng của chó [[dingo]].

Một nghiên cứu đề xuất rằng sự xuất hiện của loài dingo có thể đã dẫn đến sự tuyệt chủng của quỷ Tasmania, chó sói túi và [[Tribonyx mortierii|gà bản địa Tasmania]] trên lục địa Úc vì dingo có thể đã cạnh tranh trực tiếp với chó sói túi và quỷ để săn mồi. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng đề xuất rằng sự gia tăng dân số của loài người tăng tốc vào khoảng 4.000 năm trước có thể đã dẫn đến điều này.<ref name=johnson2003>{{cite journal|last1=Johnson|first1=CN|last2=Wroe|first2=S.|date=September 2003|title=Causes of Extinction of Vertebrates during the Holocene of Mainland Australia: Arrival of the Dingo, or Human Impact?|url=http://hol.sagepub.com/content/13/6/941.abstract|journal=The Holocene|volume=13|issue=6|pages=941–948|doi=10.1191/0959683603hl682fa|bibcode=2003Holoc..13..941J}}</ref> Tuy nhiên, một ý kiến phản đối rằng hai loài này không cạnh tranh với nhau vì loài dingo chủ yếu săn mồi vào ban ngày, trong khi người ta cho rằng chó sói túi săn mồi chủ yếu vào ban đêm. Tuy nhiên, các cuộc kiểm tra gần đây về hình thái sọ chó dingo và chó sói túi cho thấy mặc dù dingo có vết cắn yếu hơn, hộp sọ của nó có thể chống lại áp lực lớn hơn, cho phép nó kéo con mồi to hơn. Chó sói túi kém linh hoạt hơn trong chế độ ăn của nó so với loài dingo ăn tạp.<ref>{{cite news|url=http://www.smh.com.au/news/national/tigers-demise-dingo-did-do-it/2007/09/05/1188783320057.html|title=Tiger's demise: dingo did do it|date=6 September 2007|newspaper=The Sydney Morning Herald|accessdate=3 November 2008}}</ref><ref>{{cite journal|title=Computer simulation of feeding behaviour in the thylacine and dingo as a novel test for convergence and niche overlap|journal=Proceedings of the Royal Society B|year=2007|volume=274|issue=1627|pages=2819–2828|doi=10.1098/rspb.2007.0906|pmid=17785272|pmc=2288692|first1=Stephen |last1=Wroe |first2=Philip |last2=Clausen|first3=Colin |last3=McHenry|first4=Karen |last4=Moreno|first5=Eleanor |last5=Cunningham}}</ref> Phạm vi địa lí của chúng dường như đã chồng chéo lên nhau vì phần còn lại của các [[bán hóa thạch]] đã được phát hiện gần hóa thạch dingo. Việc sử dụng những con dingo như loài săn bắn đồng hành của người dân bản địa sẽ khiến chó sói túi chịu áp lực gia tăng.<ref name=johnson2003/>

[[File:Thylacine-chicken.png|thumb|right|Bức ảnh được chụp năm 1921 bởi [[Henry Burrell]] miêu tả một con chó sói túi săn gà đã được phân phối rộng rãi và có thể đã khiến loài vật này bị oan uổng là loài trộm gia cầm.<br /> Trên thực tế, bức hình đã được cắt bớt trên các tờ báo để giấu đi hàng rào thép và chuồng nhà ở hậu cảnh, phân tích của một nhà nghiên cứu sau này đã chỉ ra rằng con vật trong hình thực chất là một mẫu vật đã được [[nhồi bông]].<ref name="CF">{{cite journal|journal=Australian Zoologist |volume=33 |issue=1 |author=Freeman, Carol |date=June 2005 |url=http://www.carnivoreconservation.org/files/issues/thylacine_picture_worth.pdf |title=Is this picture worth a thousand words? An analysis of Henry Burrell's photograph of a thylacine with a chicken |format=PDF |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20120905080540/http://www.carnivoreconservation.org/files/issues/thylacine_picture_worth.pdf |archivedate=5 September 2012 }}</ref>]]
Mặc dù chó sói túi đã tuyệt chủng trên lục địa Úc, nhưng nó vẫn tồn tại vào những năm 1930 trên đảo quốc [[Tasmania]]. Vào thời điểm đầu tiên định cư của người châu Âu, phạm vi phân bố đông nhất là ở các vùng đông bắc, tây bắc và miền bắc trung du của bang.<ref name="AML" /> Chúng hiếm khi được nhìn thấy trong khoảng thời gian này nhưng dần dần bắt đầu được ghi nhận với nhiều cuộc tấn công cừu. Các sự việc này đã dẫn đến việc thành lập chương trình trao thưởng cho các nỗ lực kiểm soát số lượng của loài. [[Công ty Đất đai của Van Diemen]] đã bắt đầu tặng tiền thưởng từ đầu năm 1830, và từ năm 1888 đến 1909, [[chính phủ Tasmania]] sẽ trả 1 bảng Anh cho mỗi cái đầu chó sói túi trưởng thành đã chết (tương đương 100 bảng trở lên ngày nay) và mười [[đồng si-linh]] cho chó sói con. Tổng cộng chính phủ đã trả hơn 2.184 phần tiền thưởng, nhưng người ta cho rằng nhiều cá thể hổ Tasmania đã bị giết hơn là được ghi chép.<ref name="tasparks" /> Sự tuyệt chủng của chúng được cho là do nỗ lực không ngừng nghỉ của những người nông dân và thợ săn tiền thưởng.<ref name="tasparks" /> Có nhiều yếu tố dẫn đến sự suy giảm và tuyệt chủng cuối cùng của chúng, bao gồm cả sự cạnh tranh với những con chó hoang được mang tới đây bởi những người định cư Anh,<ref name="Boyce">{{cite journal|author=Boyce, James|year=2006|title=Canine Revolution: The Social and Environmental Impact of the Introduction of the Dog to Tasmania|url=http://www.historycooperative.org/journals/eh/11.1/boyce.html|deadurl=yes|journal=Environmental History|volume=11|issue=1|pages=102–129|doi=10.1093/envhis/11.1.102|archiveurl=https://web.archive.org/web/20090918111654/http://www.historycooperative.org/journals/eh/11.1/boyce.html|archivedate=18 September 2009}}</ref> môi trường sống bị phá hủy, sự tuyệt chủng đồng thời của các loài mồi và một căn bệnh giống [[bệnh carê]] của chó đã truyền nhiễm cho nhiều cá thể nuôi nhốt.<ref name="UTAS" /><ref name="P202203">[[Thylacine#Paddle|Paddle (2000)]], pp. 202–203.</ref> Một nghiên cứu vào năm 2012 cũng cho thấy rằng nếu không phải là do ảnh hưởng của dịch bệnh, sự tuyệt chủng của chó sói túi sẽ có thể được ngăn chặn, và trường hợp tệ nhất là chỉ bị hoãn lại. "Cơ hội cứu giống loài, thông qua việc thay đổi suy nghĩ của người dân và tái lập việc sinh sản trong tình trạng nuôi nhốt, đã có thể khá thỉ. Nhưng dịch bệnh marsupi-Carnivore, với ảnh hưởng mạnh mẽ lên tuổi thọ ở con trưởng thành và tỉ lệ tử vong ở con vị thành niên, đã đến quá sớm và lan truyền quá nhanh."<ref name="autogenerated2">{{cite journal|author=Paddle, R.|year=2012|title=The thylacine's last straw: Epidemic disease in a recent mammalian extinction|url=http://search.informit.com.au/documentSummary;dn=201212562;res=IELAPA|journal=Australian Zoologist|volume=36|issue=1|pages=75–92|doi=10.7882/az.2012.008}}</ref> Dù là lý do gì đi chăng nữa, chó sói Tasmania đã trở nên cực kỳ hiếm trong tự nhiên vào cuối những năm 1920. Nhưng trên thực tế, cho sói túi vẫn được đa số tin là chịu trách nhiệm cho các cuộc tấn công vào cừu, vào năm 1928, Ủy ban Tư vấn về Động vật bản địa Tasmania đã đề xuất một khu bảo tồn tương tự như [[Công viên Quốc gia Sông Savage]] để bảo vệ bất kỳ quần thể cho sói túi nào còn sót lại tại khu vực [[Arthur-Pieman]] ở phía tây Tasmania.<ref name="CM2">{{cite web |url=http://www.nma.gov.au/collections/highlights/thylacine |title=Pelt of a thylacine shot in the Pieman River-Zeehan area of Tasmania in 1930: Charles Selby Wilson collection |publisher=National Museum of Australia, Canberra |accessdate=9 January 2012}}</ref>

[[File:Wilf Batty last wild Thylacine.jpg|thumb|Wilf Batty với con chó sói Tasmania cuối cùng trong hoang dã đã bị giết]]
Con chó sói cuối cùng trong hoang dã được biết đến đã bị bắn chết vào năm 1930 bởi Wilf Batty, một nông dân từ [[Mawbanna]] ở phía tây bắc của bang. Con vật, được cho là một con đực, đã được nhìn thấy lởn vởn quanh nhà của Batty trong vòng vài tuần trước đó.<ref name="ley196412">{{Cite magazine
|last=Ley
|first=Willy
|author=
|last2=
|first2=
|date=December 1964
|title=The Rarest Animals
|department=For Your Information
|url=https://archive.org/stream/Galaxy_v23n02_1964-12#page/n93/mode/2up
|magazine=Galaxy Science Fiction
|pages=94–103
|type=
}}</ref><ref name="NW">{{cite web|url=http://www.naturalworlds.org/thylacine/history/persecution/persecution_10.htm|title=History – Persecution – (page 10)|year=2006|publisher=The Thylacine Museum|accessdate=27 November 2006}}</ref>

Công trình nghiên cứu năm 2012 đã kiểm tra mối quan hệ về sự đa dạng di truyền của chó sói túi trước khi chúng bị tuyệt chủng. Kết quả chỉ ra rằng các con chó sói cuối cùng ở Úc, bên cạnh mối đe dọa sinh thái từ loài dingo, chúng còn không có cả sự đa dạng di truyền, do sự cách ly địa lý hoàn toàn với lục địa Úc.<ref>
{{cite journal
|last1=Menzies|first1=Brandon R.
|first2=Marilyn B.|last2=Renfree
|first3=Thomas|last3=Heider
|first4=Frieder|last4=Mayer
|first5=Thomas B.|last5=Hildebrandt
|first6=Andrew J.|last6=Pask
|title=Limited Genetic Diversity Preceded Extinction of the Tasmanian Tiger
|journal=PLoS ONE
|date=18 April 2012
|volume=7|number=4
|doi=10.1371/journal.pone.0035433
|pages=e35433 |pmid=22530022 |pmc=3329426
|bibcode=2012PLoSO...735433M
}}</ref> Các cuộc điều tra sâu hơn vào năm 2017 cho thấy bằng chứng về sự suy giảm đa dạng di truyền ở loài này bắt đầu từ ngay cả trước khi con người đến Úc, có thể đã bắt đầu sớm nhất vào khoảng 70-120 nghìn năm trước.<ref>{{cite journal|last1=Feigin|first1=Charles Y.|last2=Newton|first2=Alex H.|last3=Doronina|first3=Liliya |display-authors=etal |title=Genome of the Tasmanian tiger provides insights into the evolution and demography of an extinct marsupial carnivore|journal=Nature Ecology & Evolution|date=11 December 2017|doi=10.1038/s41559-017-0417-y|pmid=29230027|url=https://www.nature.com/articles/s41559-017-0417-y|accessdate=13 December 2017|volume=2|issue=1|pages=182–192}}</ref>


{|
{|

Phiên bản lúc 07:58, ngày 20 tháng 2 năm 2019

Chó sói Tasmania[1]
Thời điểm hóa thạch: Tiền Pliocen tới Holocen
Chó sói Tasmania tại Washington D.C., 1902
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Mammalia
Phân thứ lớp (infraclass)Marsupialia
Bộ (ordo)Dasyuromorphia
Họ (familia)Thylacinidae
Chi (genus)Thylacinus
Loài (species)T. cynocephalus
Danh pháp hai phần
Thylacinus cynocephalus
(Harris, 1808)[3]
Khu vực phân bố lịch sử của chó sói Tasmania[4]
Khu vực phân bố lịch sử của chó sói Tasmania[4]
Danh pháp đồng nghĩa
Danh sách
  • Didelphis cynocephala Harris, 1808
  • Dasyurus cynocephalus Geoffroy, 1810
  • Thylacinus harrisii Temminck, 1824
  • Dasyurus lucocephalus Grant, 1831
  • Thylacinus striatus Warlow, 1833
  • Thylacinus communis Anon., 1859
  • Thylacinus breviceps Krefft, 1868

Chó sói túi (tên khoa học: Thylacinus cynocephalus), còn được gọi là chó sói Tasmania do hình dạng giống họ chó, hay còn gọi là hổ Tasmania do các vằn ở phần cuối lưng,[5] hiện đã tuyệt chủng, là một loài thú ăn thịt có túi tiến hóa vào khoảng 4 triệu năm trước. Cá thể cuối cùng bị bắt sống vào năm 1933 ở Tasmania. Chúng là động vật đặc hữu của Tasmania, New Guinea và lục địa Úc.

Chó sói túi tương đối nhút nhát và sống về đêm, với hình dáng của một con chó có kích thước từ trung bình đến lớn, ngoại trừ cái đuôi cứng và túi bụng tương tự như một con chuột túi, và các đường sọc ngang tối màu tỏa ra từ đỉnh cuối lưng, giống của một con hổ. Chó sói túi là loài săn mồi đầu bảng đáng gờm.[4] Do quá trình tiến hóa hội tụ, chúng có được hình dáng và sự thích nghi tương tự như các loài hổ và sói ở Bắc bán cầu, mặc dù không có quan hệ trực tiếp. Họ hàng gần nhất của chúng là quỷ Tasmania hoặc Myrmecobius fasciatus. Hổ Tasmania là một trong hai loài thú có túi mà cả con đực và con cái đều mang những cái túi: loài còn lại có đặc điểm này là Chironectes minimus. Các túi của chó sói túi đực phục vụ như một vỏ bọc bảo vệ cơ quan sinh sản bên ngoài.

Chó sói túi đã trở nên cực kỳ hiếm và gần như tuyệt chủng trên lục địa Úc trước cả khi người Anh đến định cư ở lục địa này, nhưng chúng vẫn sống sót trên đảo Tasmania cùng với một số loài đặc hữu khác, bao gồm cả quỷ Tasmania. Săn bắn ráo riết được khuyến khích bởi tiền thưởng thường đuwocj cho là nguyên nhân của sự tuyệt chủng, nhưng các yếu tố khác bao gồm bệnh tật, sự xâm thực của chó và sự xâm lấn của con người vào môi trường sống của chúng cũng đã có thể đóng góp một phần không nhỏ vào sự tuyệt chủng đó.

Lịch sử tiến hóa

Hộp sọ của chó sói túi (bên trái) và sói xám, rất giống nhau, mặc dù chúng không liên quan gì đến nhau. Các nghiên cứu cho thấy hình dạng hộp sọ của cáo đỏ còn giống hơn nhiều.[6]

Chó sói túi hiện đại có lẽ đã xuất hiện vào khoảng 4 triệu năm trước. Họ Thylacinidae được cho là bắt nguồn vào đầu thế Miocene; kể từ đầu những năm 1990, ít nhất bảy loài hóa thạch đã được phát hiện tại Riversleigh, một phần của công viên Quốc gia Lawn Hill ở phía tây bắc Queensland.[7][8] Thylacine của Dickson (Nimbacinus Dicksoni) là loài lâu đời nhất trong số bảy loài hóa thạch được phát hiện, có niên đại từ 23 triệu năm trước. Thylacinid này nhỏ hơn hẳn so với các họ hàng gần đây của chúng.[9] Loài lớn nhất, thylacine mạnh mẽ (Thylacinus potens) phát triển đến kích cỡ của một con sói, là loài duy nhất sống sót trong thế Miocen muộn.[10] Vào thời kỳ cuối của thế Canh Tân và đầu thế Toàn Tân sớm, chó sói túi hiện đại đã lan rộng (mặc dù với số lượng không đáng kể) trên khắp đất liền của ÚcNew Guinea.[11]

Một ví dụ điển hình về sự tiến hóa hội tụ, chó sói túi cho thấy nhiều điểm tương đồng với các thành viên của họ chó, Canidae, ở Bắc bán cầu: răng sắc nhọn, hàm mạnh mẽ, gót chân cao và toàn bộ hình thái cơ thể nói chung giống hệt với chó. Kể từ khi chó sói túi lấp đầy hốc sinh thái ở Úc giống như họ chó đã làm ở các nơi khác, chúng đã phát triển nhiều đặc điểm tương tự. Mặc dù vậy, vì là một loài thú có túi, nó không liên quan đến bất kỳ loài thú có nhau thai ăn thịt nào ở Bắc bán cầu.[12]

Chúng rất dễ để phân biệt với loài chó vì những cái sọc sau lưng nhưng bộ xương của chúng lại khó để phần biệt hơn. Các sinh viên động vật học tại Oxford phải nhận dạng 100 cá thể động vật trong kì thi cuối năm. Tin tức bắt đầu lan truyền, nếu cứ có một cái sọ 'chó' xuất hiện, bạn nên xác định nó là loài Thylacinus với lý do rằng bất cứ thứ gì rõ ràng như hộp sọ của chó chắc chắn là một cái bẫy. Sau đó một năm, các giám khảo đã nhân đôi độ khó và đưa vào bài thi hộp sọ chó thật. Cách dễ nhất để nói lên sự khác biệt là hai lỗ nổi bật ở xương vòm miệng, là đặc điểm chung của tất cả các loài thú có túi.[13]

Phát sinh chủng loài

Chó sói túi là một thành viên nguyên thủy của bộ Dasyuromorphia. Cây phát sinh loài được hiển thị ở dưới:[14]

Dasyuromorphia

Thylacinus (chó sói túi)

Myrmecobius

Sminthopsis

Phascogale

Dasyurus

Sinh thái

Chó sói túi có lẽ thích các khu rừng bạch đàn khô, vùng ngập nước và đồng cỏ của lục địa Úc.[32] Các bức tranh trên đá của người bản địa ở đây chỉ ra rằng chó sói túi sinh sống ở khắp lục địa Úc và New Guinea. Bằng chứng về sự tồn tại của loài vật này ở Úc đến từ một xác chết khô được phát hiện trong một hang động ở đồng bằng Nullarbor thuộc Tây Úc năm 1990; định tuổi bằng cacbon tiết lộ mẫu vật này đã khoảng 3.300 năm tuổi.[40] Các dấu chân hóa thạch được kiểm tra gần đây cũng cho thấy phạm vi phân bố lịch sử của loài này trên đảo Kangaroo.[41]

Ở Tasmania, chúng ưa thích các khu rừng gỗ của vùng trung du và vùng đất hoang ven biển, những nơi mà sau này trở thành tâm điểm sự chú ý của người dân định cư Anh tìm kiếm các vùng đất để chăn thả gia súc.[42] Các đường sọc có thể đã giúp con vật ngụy trang trong môi trường rừng rậm,[29] nhưng đặc điểm này cũng có thể phục vụ cho mục đích nhận dạng cá thể.[43] Một con chó sói túi điển hình có diện tích lãnh thổ vào khoảng từ 40 đến 80 km^ (15 đến 31 dặm vuông).[30] Chúng dường như chỉ loanh quanh trong phạm vi nhà của chúng mà không có tính lãnh thổ; các nhóm lớn không phải là gia đình đôi khi được quan sát đi cùng nhau.[44]

Tập tính

Chúng ta biết rất ít về hành vi của loài chó sói túi. Một vài quan sát được ghi lại từ những con vật bị giam cầm, nhưng còn khá hạn chế, chỉ có những bằng chứng giai thoại còn tồn tại về tập tính của loài này trong hoang dã. Hầu hết các quan sát được thực hiện vào ban ngày trong khi hổ Tasmania là loài sống về đêm. Những quan sát này, được thực hiện trong thế kỷ XX, có thể không điển hình vì chúng là một loài đang dưới áp lực chọn lọc và sẽ sớm dẫn đến sự tuyệt chủng của chúng. Một số đặc điểm đã được ngoại suy từ hành vi của người họ hàng gần gũi, quỷ Tasmania.

Chó sói túi là loài đi săn về đêm và vào hoàng hôn, dành hàng giờ ban ngày trong các hang động nhỏ, thân cây rỗng hoặc tổ làm từ cành cây, vỏ cây hoặc lá dương xỉ. Chúng có xu hướng rút lui về những ngọn đồi và rừng để trú ẩn vào ban ngày và săn mồi ở các đồng hoang vào ban đêm. Các nhà quan sát ban đầu lưu ý rằng con vật này rất nhút nhát và bí mật, chúng nhận thức được sự hiện diện của con người và thường tránh tiếp xúc, tuy vậy đôi khi chúng cũng tỏ ra khá tò mò.[45] Lúc bấy giờ, dân định cư ở đây rất kỳ thị con vật do bản chất "dữ dội" của chúng; điều này có thể là do mối đe dọa của chúng đối với nền nông nghiệp.[46]

Tuyệt chủng

Một con chó sói túi bị treo, năm 1869

Châu Úc đã mất hơn 90% các loài động vật có xương sống trên cạn lớn vào khoảng 40.000 năm trước, với những ngoại lệ đáng chú ý là chuột túi và chó sói túi.[15] Một tờ giấy năm 2010 đã xem xét vấn đề này và đưa ra kết luận rằng con người có khả năng là một trong những yếu tố chính dẫn đến sự tuyệt chủng của nhiều loài ở Úc, cùng với thay đổi khí hậu và hoạt động cháy rừng đóng vai trò hình thành điều kiện, song các tác giả của nghiên cứu đã cảnh báo rằng giải thích chỉ từ một yếu tố có thể là quá đơn giản.[15] Bản thân loài chó sói túi đã đứng bên bờ vực tuyệt chủng trên lục địa Úc vào khoảng 2.000 năm trước.[2] Tuy nhiên, các bằng chứng đáng tin cậy về sự sống sót của chó sói túi ở Nam Úc (mặc dù chỉ giới hạn ở 'các khu định cư mỏng' và dãy núi Flinder) và New South Wales (Núi Blue) vẫn tồn tại vào cuối những năm 1830, nguồn được lấy từ cả người bản địa và người châu Âu.Lỗi chú thích: Không có </ref> để đóng thẻ <ref> Tuy nhiên, một ý kiến phản đối rằng hai loài này không cạnh tranh với nhau vì loài dingo chủ yếu săn mồi vào ban ngày, trong khi người ta cho rằng chó sói túi săn mồi chủ yếu vào ban đêm. Tuy nhiên, các cuộc kiểm tra gần đây về hình thái sọ chó dingo và chó sói túi cho thấy mặc dù dingo có vết cắn yếu hơn, hộp sọ của nó có thể chống lại áp lực lớn hơn, cho phép nó kéo con mồi to hơn. Chó sói túi kém linh hoạt hơn trong chế độ ăn của nó so với loài dingo ăn tạp.[16][17] Phạm vi địa lí của chúng dường như đã chồng chéo lên nhau vì phần còn lại của các bán hóa thạch đã được phát hiện gần hóa thạch dingo. Việc sử dụng những con dingo như loài săn bắn đồng hành của người dân bản địa sẽ khiến chó sói túi chịu áp lực gia tăng.[18]

Bức ảnh được chụp năm 1921 bởi Henry Burrell miêu tả một con chó sói túi săn gà đã được phân phối rộng rãi và có thể đã khiến loài vật này bị oan uổng là loài trộm gia cầm.
Trên thực tế, bức hình đã được cắt bớt trên các tờ báo để giấu đi hàng rào thép và chuồng nhà ở hậu cảnh, phân tích của một nhà nghiên cứu sau này đã chỉ ra rằng con vật trong hình thực chất là một mẫu vật đã được nhồi bông.[19]

Mặc dù chó sói túi đã tuyệt chủng trên lục địa Úc, nhưng nó vẫn tồn tại vào những năm 1930 trên đảo quốc Tasmania. Vào thời điểm đầu tiên định cư của người châu Âu, phạm vi phân bố đông nhất là ở các vùng đông bắc, tây bắc và miền bắc trung du của bang.[20] Chúng hiếm khi được nhìn thấy trong khoảng thời gian này nhưng dần dần bắt đầu được ghi nhận với nhiều cuộc tấn công cừu. Các sự việc này đã dẫn đến việc thành lập chương trình trao thưởng cho các nỗ lực kiểm soát số lượng của loài. Công ty Đất đai của Van Diemen đã bắt đầu tặng tiền thưởng từ đầu năm 1830, và từ năm 1888 đến 1909, chính phủ Tasmania sẽ trả 1 bảng Anh cho mỗi cái đầu chó sói túi trưởng thành đã chết (tương đương 100 bảng trở lên ngày nay) và mười đồng si-linh cho chó sói con. Tổng cộng chính phủ đã trả hơn 2.184 phần tiền thưởng, nhưng người ta cho rằng nhiều cá thể hổ Tasmania đã bị giết hơn là được ghi chép.[21] Sự tuyệt chủng của chúng được cho là do nỗ lực không ngừng nghỉ của những người nông dân và thợ săn tiền thưởng.[21] Có nhiều yếu tố dẫn đến sự suy giảm và tuyệt chủng cuối cùng của chúng, bao gồm cả sự cạnh tranh với những con chó hoang được mang tới đây bởi những người định cư Anh,[22] môi trường sống bị phá hủy, sự tuyệt chủng đồng thời của các loài mồi và một căn bệnh giống bệnh carê của chó đã truyền nhiễm cho nhiều cá thể nuôi nhốt.[23][24] Một nghiên cứu vào năm 2012 cũng cho thấy rằng nếu không phải là do ảnh hưởng của dịch bệnh, sự tuyệt chủng của chó sói túi sẽ có thể được ngăn chặn, và trường hợp tệ nhất là chỉ bị hoãn lại. "Cơ hội cứu giống loài, thông qua việc thay đổi suy nghĩ của người dân và tái lập việc sinh sản trong tình trạng nuôi nhốt, đã có thể khá thỉ. Nhưng dịch bệnh marsupi-Carnivore, với ảnh hưởng mạnh mẽ lên tuổi thọ ở con trưởng thành và tỉ lệ tử vong ở con vị thành niên, đã đến quá sớm và lan truyền quá nhanh."[25] Dù là lý do gì đi chăng nữa, chó sói Tasmania đã trở nên cực kỳ hiếm trong tự nhiên vào cuối những năm 1920. Nhưng trên thực tế, cho sói túi vẫn được đa số tin là chịu trách nhiệm cho các cuộc tấn công vào cừu, vào năm 1928, Ủy ban Tư vấn về Động vật bản địa Tasmania đã đề xuất một khu bảo tồn tương tự như Công viên Quốc gia Sông Savage để bảo vệ bất kỳ quần thể cho sói túi nào còn sót lại tại khu vực Arthur-Pieman ở phía tây Tasmania.[26]

Wilf Batty với con chó sói Tasmania cuối cùng trong hoang dã đã bị giết

Con chó sói cuối cùng trong hoang dã được biết đến đã bị bắn chết vào năm 1930 bởi Wilf Batty, một nông dân từ Mawbanna ở phía tây bắc của bang. Con vật, được cho là một con đực, đã được nhìn thấy lởn vởn quanh nhà của Batty trong vòng vài tuần trước đó.[27][28]

Công trình nghiên cứu năm 2012 đã kiểm tra mối quan hệ về sự đa dạng di truyền của chó sói túi trước khi chúng bị tuyệt chủng. Kết quả chỉ ra rằng các con chó sói cuối cùng ở Úc, bên cạnh mối đe dọa sinh thái từ loài dingo, chúng còn không có cả sự đa dạng di truyền, do sự cách ly địa lý hoàn toàn với lục địa Úc.[29] Các cuộc điều tra sâu hơn vào năm 2017 cho thấy bằng chứng về sự suy giảm đa dạng di truyền ở loài này bắt đầu từ ngay cả trước khi con người đến Úc, có thể đã bắt đầu sớm nhất vào khoảng 70-120 nghìn năm trước.[30]

Hình minh họa chó sói Tasmania

Tái sinh

Các nhà khoa học Úc đang dự định tái tạo chó sói Tasmania đã bị tuyệt chủng từ gene trong xương và răng của chúng trong bảo tàng.

Hình ảnh

Chú thích

  1. ^ Groves, Colin (16 tháng 11 năm 2005). Wilson D. E. và Reeder D. M. (chủ biên) (biên tập). Mammal Species of the World . Nhà xuất bản Đại học Johns Hopkins. tr. 23. ISBN 0-801-88221-4.
  2. ^ a b World Conservation Monitoring Centre (1996). Thylacinus cynocephalus. Sách đỏ 2006. IUCN 2006. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2006. Mục từ trong CSDL bao gồm cả diễn giải tại sao loài này lại liệt kê là tuyệt chủng năm 1936
  3. ^ Wilson, D. E.; Reeder, D. M. biên tập (2005). “Thylacinus cynocephalus”. Mammal Species of the World . Baltimore: Nhà in Đại học Johns Hopkins, 2 tập (2.142 trang). tr. 174. ISBN 978-0-8018-8221-0. OCLC 62265494.
  4. ^ a b Paddle (2000)
  5. ^ Cùng với các tên thường gọi, loài này còn được gọi bằng nhiều tên khác nhau nữa, khiến cho việc xác định loài này trong các văn bản lịch sử càng khó khăn hơn nữa. Những tên khác mà chúng thường được đặt gọi gồm linh cẩu có túi, sói ngựa vằn, sói kangaroo, chồn Opossum ngựa vằn, hổ có túi, mèo có túi, sói Tasmanian có túi, và chồn opossum linh cẩu.
  6. ^ Werdelin, L. (1986). “Comparison of Skull Shape in Marsupial and Placental Carnivores”. Australian Journal of Zoology. 34 (2): 109–117. doi:10.1071/ZO9860109.
  7. ^ “Riversleigh”. Australian Museum. 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2006.
  8. ^ “Is there a fossil Thylacine?”. Australian Museum. 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2006.
  9. ^ “Lost Kingdoms: Dickson's Thylacine (Nimbacinus dicksoni)”. Australian Museum. 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2006.
  10. ^ “Lost Kingdoms: Powerful Thylacine (Thylacinus potens)”. Australian Museum. 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2006.
  11. ^ Johnson, C. N.; Wroe, S. (tháng 11 năm 2003). “Causes of extinction of vertebrates during the Holocene of mainland Australia: arrival of the dingo, or human impact?”. The Holocene. 13 (6): 941–948. Bibcode:2003Holoc..13..941J. doi:10.1191/0959683603hl682fa.
  12. ^ “Threatened Species: Thylacine – Tasmanian tiger, Thylacinus cynocephalus (PDF). Parks and Wildlife Service, Tasmania. tháng 12 năm 2003. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2006.
  13. ^ Dawkins, Richard (2016). The Ancestor's Tale. Mariner Books. tr. 277.
  14. ^ Miller, W; Drautz, DI; Janecka, JE; và đồng nghiệp (tháng 2 năm 2009). “The mitochondrial genome sequence of the Tasmanian tiger (Thylacinus cynocephalus)”. Genome Res. 19 (2): 213–220. doi:10.1101/gr.082628.108. PMC 2652203. PMID 19139089.
  15. ^ a b Prideaux, Gavin J.; Gully, Grant A.; Couzens, Aidan M. C.; Ayliffe, Linda K.; Jankowski, Nathan R.; Jacobs, Zenobia; Roberts, Richard G.; Hellstrom, John C.; Gagan, Michael K.; Hatcher, Lindsay M. (tháng 12 năm 2010). “Timing and dynamics of Late Pleistocene mammal extinctions in southwestern Australia”. Proceedings of the National Academy of Sciences. 107 (51): 22157–22162. Bibcode:2010PNAS..10722157P. doi:10.1073/pnas.1011073107. PMC 3009796. PMID 21127262.
  16. ^ “Tiger's demise: dingo did do it”. The Sydney Morning Herald. 6 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2008.
  17. ^ Wroe, Stephen; Clausen, Philip; McHenry, Colin; Moreno, Karen; Cunningham, Eleanor (2007). “Computer simulation of feeding behaviour in the thylacine and dingo as a novel test for convergence and niche overlap”. Proceedings of the Royal Society B. 274 (1627): 2819–2828. doi:10.1098/rspb.2007.0906. PMC 2288692. PMID 17785272.
  18. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên johnson2003
  19. ^ Freeman, Carol (tháng 6 năm 2005). “Is this picture worth a thousand words? An analysis of Henry Burrell's photograph of a thylacine with a chicken” (PDF). Australian Zoologist. 33 (1). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 9 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  20. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên AML
  21. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên tasparks
  22. ^ Boyce, James (2006). “Canine Revolution: The Social and Environmental Impact of the Introduction of the Dog to Tasmania”. Environmental History. 11 (1): 102–129. doi:10.1093/envhis/11.1.102. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  23. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên UTAS
  24. ^ Paddle (2000), pp. 202–203.
  25. ^ Paddle, R. (2012). “The thylacine's last straw: Epidemic disease in a recent mammalian extinction”. Australian Zoologist. 36 (1): 75–92. doi:10.7882/az.2012.008.
  26. ^ “Pelt of a thylacine shot in the Pieman River-Zeehan area of Tasmania in 1930: Charles Selby Wilson collection”. National Museum of Australia, Canberra. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2012.
  27. ^ Ley, Willy (tháng 12 năm 1964). “The Rarest Animals”. For Your Information. Galaxy Science Fiction: 94–103.
  28. ^ “History – Persecution – (page 10)”. The Thylacine Museum. 2006. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2006.
  29. ^ Menzies, Brandon R.; Renfree, Marilyn B.; Heider, Thomas; Mayer, Frieder; Hildebrandt, Thomas B.; Pask, Andrew J. (18 tháng 4 năm 2012). “Limited Genetic Diversity Preceded Extinction of the Tasmanian Tiger”. PLoS ONE. 7 (4): e35433. Bibcode:2012PLoSO...735433M. doi:10.1371/journal.pone.0035433. PMC 3329426. PMID 22530022.
  30. ^ Feigin, Charles Y.; Newton, Alex H.; Doronina, Liliya; và đồng nghiệp (11 tháng 12 năm 2017). “Genome of the Tasmanian tiger provides insights into the evolution and demography of an extinct marsupial carnivore”. Nature Ecology & Evolution. 2 (1): 182–192. doi:10.1038/s41559-017-0417-y. PMID 29230027. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2017.

Tham khảo