Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trầm cảm”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 1: Dòng 1:
{{cần biên tập|Tâm lý học hoặc/và y học}}
{{cần biên tập|Tâm lý học hoặc/và y học}}
{{Refimprove|date=January 2016}}
[[Tập tin:Vincent Willem van Gogh 002.jpg|nhỏ|250px|Bức họa một người bệnh trầm cảm của [[Vincent van Gogh]], một họa sĩ cũng mắc chứng này.]]
[[Tập tin:Vincent Willem van Gogh 002.jpg|nhỏ|250px|Bức họa một người bệnh trầm cảm của [[Vincent van Gogh]], một họa sĩ cũng mắc chứng này.]]
'''Rối loạn trầm cảm''' ('''MDD''', '''M'''ajor '''D'''epressive '''D'''isorder) hay '''trầm cảm''' là một [[Bệnh tâm thần|chứng rối loạn tâm thần]] phổ biến. Các triệu chứng của căn bệnh bao gồm: [[tâm trạng buồn bã]] kéo dài ít nhất 2 tuần liên tiếp, [[lòng tự trọng thấp]], [[mất hứng thú]] với các hoạt động bệnh nhân từng cảm thấy thú vị, hay các hoạt động bình thường cũng dần trở nên khó khăn với bệnh nhân, cảm thấy uể oải thiếu năng lượng, [[đau]] nhưng không rõ nguyên nhân. <ref name="NIH20163">{{Chú thích web|url=http://www.nimh.nih.gov/health/topics/depression/index.shtml|tựa đề=Depression|ngày=May 2016|website=NIMH|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160805065529/http://www.nimh.nih.gov/health/topics/depression/index.shtml|ngày lưu trữ=5 August 2016|ngày truy cập=31 July 2016}}</ref> Có thể thỉnh thoảng những người mắc bệnh trầm cảm còn [[Hoang tưởng|ảo tưởng]] hoặc gặp [[ảo giác]].<ref name="NIH20163"/> Các triệu chứng của căn bệnh có thể cách vài năm mới gặp, hoặc gần như luôn xuất hiện. <ref name="DSM54">{{Chú thích|title=Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders|isbn=978-0-89042-555-8}}</ref> Trầm cảm nặng thì [[nỗi buồn]] sẽ kéo dài hơn, và những việc vốn là một phần bình thường của cuộc sống bỗng trở nên khó khăn hơn. Ngoài ra khi mắc bệnh, cảm xúc của bệnh nhân sẽ trở nên bất thường. <ref name="DSM54"/><ref>[http://www.medinet.hochiminhcity.gov.vn/ttyh/bshkhkt/roiloantramcam.htm Dịch tể học các rối loạn trầm cảm và lo âu trong chăm sóc sức khoẻ ban đầu, www.medinet.hochiminhcity.gov.vn]</ref>
'''Rối loạn trầm cảm''' ('''MDD''', '''M'''ajor '''D'''epressive '''D'''isorder) hay '''trầm cảm''' là một [[Bệnh tâm thần|chứng rối loạn tâm thần]] phổ biến. Các triệu chứng của căn bệnh bao gồm: [[tâm trạng buồn bã]] kéo dài ít nhất 2 tuần liên tiếp, [[lòng tự trọng thấp]], [[mất hứng thú]] với các hoạt động bệnh nhân từng cảm thấy thú vị, hay các hoạt động bình thường cũng dần trở nên khó khăn với bệnh nhân, cảm thấy uể oải thiếu năng lượng, [[đau]] nhưng không rõ nguyên nhân. <ref name="NIH20163">{{Chú thích web|url=http://www.nimh.nih.gov/health/topics/depression/index.shtml|tựa đề=Depression|ngày=May 2016|website=NIMH|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160805065529/http://www.nimh.nih.gov/health/topics/depression/index.shtml|ngày lưu trữ=5 August 2016|ngày truy cập=31 July 2016}}</ref> Có thể thỉnh thoảng những người mắc bệnh trầm cảm còn [[Hoang tưởng|ảo tưởng]] hoặc gặp [[ảo giác]].<ref name="NIH20163"/> Các triệu chứng của căn bệnh có thể cách vài năm mới gặp, hoặc gần như luôn xuất hiện. <ref name="DSM54">{{Chú thích|title=Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders|isbn=978-0-89042-555-8}}</ref> Trầm cảm nặng thì [[nỗi buồn]] sẽ kéo dài hơn, và những việc vốn là một phần bình thường của cuộc sống bỗng trở nên khó khăn hơn. Ngoài ra khi mắc bệnh, cảm xúc của bệnh nhân sẽ trở nên bất thường. <ref name="DSM54"/><ref>[http://www.medinet.hochiminhcity.gov.vn/ttyh/bshkhkt/roiloantramcam.htm Dịch tể học các rối loạn trầm cảm và lo âu trong chăm sóc sức khoẻ ban đầu, www.medinet.hochiminhcity.gov.vn]</ref>
Dòng 11: Dòng 10:


== Nguyên nhân ==
== Nguyên nhân ==
[[Tập tin:Diathesis_stress_model_cup_analogy.svg|liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:Diathesis_stress_model_cup_analogy.svg|nhỏ|Một phép tương tự chiếc cốc thể hiện mô hình căng thẳng rằng dưới cùng một lượng tác nhân gây căng thẳng, người 2 dễ bị tổn thương hơn người 1, do khuynh hướng của họ. <ref name="Ingram">{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=1Fd0LneB724C&lpg=PR7|title=Development of Psychopathology: A Vulnerability-Stress Perspective|last=Hankin|first=Benjamin L.|last2=Abela|first2=John R. Z.|date=2005|publisher=SAGE Publications|isbn=9781412904902|pages=32–34|language=en}}</ref>]]
* Bệnh do một biến cố trong quá khứ xảy ra lâu dài nên từ tâm lý tác động lên thể trạng (thực thể).
[[Mô hình tâm lý xã hội|Mô hình tâm lý xã hội sinh học]] đề xuất rằng các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội đều có vai trò gây ra trầm cảm. <ref name="DSM5">{{Chú thích|isbn=978-0-89042-555-8}}</ref> <ref>{{Chú thích web|url=http://www.surgeongeneral.gov/library/mentalhealth/pdfs/c2.pdf|tựa đề=The fundamentals of mental health and mental illness|tác giả=Department of Health and Human Services|năm=1999|website=Mental Health: A Report of the Surgeon General|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20081217031913/http://www.surgeongeneral.gov/library/mentalhealth/pdfs/c2.pdf|ngày lưu trữ=17 December 2008|ngày truy cập=11 November 2008}}</ref> Các [[Mô hình căng thẳng - diathesis|mô hình tạng stress]] quy định cụ thể mà kết quả trầm cảm khi một lỗ hổng tồn tại trước đó, hoặc [[Diathesis (y học)|tạng]], được kích hoạt bởi các sự kiện cuộc sống căng thẳng. Tính dễ bị tổn thương tồn tại từ trước có thể là do [[Gen|di truyền]], <ref name="Caspi">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Caspi A, Sugden K, Moffitt TE, Taylor A, Craig IW, Harrington H, McClay J, Mill J, Martin J, Braithwaite A, Poulton R|date=July 2003|title=Influence of life stress on depression: moderation by a polymorphism in the 5-HTT gene|journal=Science|volume=301|issue=5631|pages=386–89|bibcode=2003Sci...301..386C|doi=10.1126/science.1083968|pmid=12869766}}</ref> <ref name="pmid18181793">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Haeffel GJ, Getchell M, Koposov RA, Yrigollen CM, Deyoung CG, Klinteberg BA, Oreland L, Ruchkin VV, Grigorenko EL|date=January 2008|title=Association between polymorphisms in the dopamine transporter gene and depression: evidence for a gene-environment interaction in a sample of juvenile detainees|url=http://www.nd.edu/~ghaeffel/Resources/Haeffel%20et%20al.,%202008.pdf|journal=Psychological Science|volume=19|issue=1|pages=62–69|doi=10.1111/j.1467-9280.2008.02047.x|pmid=18181793|archive-url=https://web.archive.org/web/20081217031910/http://www.nd.edu/~ghaeffel/Resources/Haeffel%20et%20al.%2C%202008.pdf|archive-date=17 December 2008}}</ref> ngụ ý sự tương tác giữa [[Thiên nhiên và nuôi dưỡng|tự nhiên và nuôi dưỡng]], hoặc [[Lược đồ (tâm lý học)|sơ đồ]], kết quả từ quan điểm về thế giới được học trong thời thơ ấu. <ref>{{Chú thích web|url=http://www.psychologicalscience.org/observer/getArticle.cfm?id=1640|tựa đề=Deconstructing depression: A diathesis-stress perspective (Opinion)|tác giả=Slavich GM|năm=2004|website=APS Observer|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20110511233644/http://www.psychologicalscience.org/observer/getArticle.cfm?id=1640|ngày lưu trữ=11 May 2011|ngày truy cập=11 November 2008}}</ref>
* Do dùng thuốc có tác dụng phụ gây trầm cảm: thuốc an thần kinh (aminazin)/thuốc gây nghiện (như thuốc an thần, ma túy đá).

* Theo một số nhà sinh lý học, nguyên nhân gây trầm cảm có thể nằm ở vấn đề di truyền. Hàm lượng chất dẫn truyền thần kinh serotonin thấp cũng có thể là nguyên nhân gây bệnh.
[[Lạm dụng trẻ em|Lạm dụng thời thơ ấu]], cả về thể chất, tình dục hoặc tâm lý, đều là các yếu tố nguy cơ dẫn đến trầm cảm, trong số các vấn đề tâm thần khác cùng xảy ra như lo lắng và [[Lạm dụng chất|lạm dụng ma túy]] . Chấn thương thời thơ ấu cũng tương quan với mức độ trầm cảm, thiếu phản ứng với điều trị và thời gian mắc bệnh. Tuy nhiên, một số người dễ mắc bệnh tâm thần hơn như trầm cảm sau chấn thương, và nhiều gen khác nhau đã được đề xuất để kiểm soát tính nhạy cảm. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Saveanu RV, Nemeroff CB|date=March 2012|title=Etiology of depression: genetic and environmental factors|url=https://www.researchgate.net/publication/221866686|journal=The Psychiatric Clinics of North America|volume=35|issue=1|pages=51–71|doi=10.1016/j.psc.2011.12.001|pmid=22370490}}</ref>
*Do các vấn đề của cuộc sống hằng ngày: tiền bạc, học hành, tình cảm, công việc,...

*Do bị đối xử và chăm sóc không tốt, bị bỏ bê, lớn tiếng quát mắng, không được tâm sự và nói chuyện thương xuyên (đối với trẻ em độ tuổi từ 9-16)
=== Di truyền ===
[[Di truyền hành vi|Các nghiên cứu về gia đình và sinh đôi]] cho thấy gần 40% sự khác biệt giữa các cá nhân về nguy cơ mắc chứng rối loạn trầm cảm nặng có thể được [[Hệ số di truyền|giải thích bởi các yếu tố di truyền]] . <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Sullivan PF, Neale MC, Kendler KS|date=October 2000|title=Genetic epidemiology of major depression: review and meta-analysis|journal=The American Journal of Psychiatry|volume=157|issue=10|pages=1552–62|doi=10.1176/appi.ajp.157.10.1552|pmid=11007705}}</ref> Giống như hầu hết các rối loạn tâm thần, rối loạn trầm cảm chính có khả năng bị ảnh hưởng bởi nhiều thay đổi di truyền cá nhân. Vào năm 2018, một [[Nghiên cứu tương quan toàn bộ nhiễm sắc thể|nghiên cứu liên kết toàn bộ bộ gen đã]] phát hiện ra 44 biến thể trong bộ gen có liên quan đến nguy cơ trầm cảm nặng. <ref>{{Chú thích tạp chí|last=Wray|first=NR|date=May 2018|title=Genome-wide association analyses identify 44 risk variants and refine the genetic architecture of major depression|url=http://juser.fz-juelich.de/record/845891|journal=Nature Genetics|volume=50|issue=5|pages=668–681|doi=10.1038/s41588-018-0090-3|pmc=5934326|pmid=29700475}}</ref> Tiếp theo là một nghiên cứu năm 2019 đã tìm thấy 102 biến thể trong bộ gen có liên quan đến chứng trầm cảm. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Howard DM, Adams MJ, Clarke TK, Hafferty JD, Gibson J, Shirali M, etal|date=March 2019|title=Genome-wide meta-analysis of depression identifies 102 independent variants and highlights the importance of the prefrontal brain regions|journal=Nature Neuroscience|volume=22|issue=3|pages=343–352|doi=10.1038/s41593-018-0326-7|pmc=6522363|pmid=30718901<!--|pmc=6522363-->}}{{Update-after|2019|09|01|reason=embargo on pmc lifted}}</ref>

[[5-HTTLPR]], hoặc [[alen]] ngắn của serotonin vận chuyển [[Vùng gen khởi động|gen khởi động]] đã gắn liền với tăng nguy cơ trầm cảm. Tuy nhiên, kể từ những năm 1990, các kết quả không nhất quán, với ba đánh giá gần đây cho thấy có thấy và hai đánh giá không tìm thấy. <ref name="Caspi2">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Caspi A, Sugden K, Moffitt TE, Taylor A, Craig IW, Harrington H, McClay J, Mill J, Martin J, Braithwaite A, Poulton R|date=July 2003|title=Influence of life stress on depression: moderation by a polymorphism in the 5-HTT gene|journal=Science|volume=301|issue=5631|pages=386–89|bibcode=2003Sci...301..386C|doi=10.1126/science.1083968|pmid=12869766}}</ref> <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Kendler KS, Kuhn JW, Vittum J, Prescott CA, Riley B|date=May 2005|title=The interaction of stressful life events and a serotonin transporter polymorphism in the prediction of episodes of major depression: a replication|journal=Archives of General Psychiatry|volume=62|issue=5|pages=529–35|doi=10.1001/archpsyc.62.5.529|pmid=15867106|doi-access=free}}</ref> <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Risch N, Herrell R, Lehner T, Liang KY, Eaves L, Hoh J, Griem A, Kovacs M, Ott J, Merikangas KR|date=June 2009|title=Interaction between the serotonin transporter gene (5-HTTLPR), stressful life events, and risk of depression: a meta-analysis|journal=JAMA|volume=301|issue=23|pages=2462–71|doi=10.1001/jama.2009.878|pmc=2938776|pmid=19531786}}</ref> <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Munafò MR, Durrant C, Lewis G, Flint J|date=February 2009|title=Gene X environment interactions at the serotonin transporter locus|journal=Biological Psychiatry|volume=65|issue=3|pages=211–19|doi=10.1016/j.biopsych.2008.06.009|pmid=18691701}}</ref> <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Karg K, Burmeister M, Shedden K, Sen S|date=May 2011|title=The serotonin transporter promoter variant (5-HTTLPR), stress, and depression meta-analysis revisited: evidence of genetic moderation|journal=Archives of General Psychiatry|volume=68|issue=5|pages=444–54|doi=10.1001/archgenpsychiatry.2010.189|pmc=3740203|pmid=21199959}}</ref> Các gen khác có liên quan đến tương tác gen-môi trường bao gồm [[CRHR1]], [[FKBP5]] và [[BDNF]], hai gen đầu tiên liên quan đến phản ứng căng thẳng của [[trục HPA]] và gen sau liên quan đến [[Sinh thần kinh|hình thành thần kinh]] . Không có kết luận nào về tác động của [[gen ứng cử viên]] đối với bệnh trầm cảm, dù đơn lẻ hay kết hợp với căng thẳng trong cuộc sống. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Culverhouse RC, Saccone NL, Horton AC, Ma Y, Anstey KJ, Banaschewski T, etal|date=January 2018|title=Collaborative meta-analysis finds no evidence of a strong interaction between stress and 5-HTTLPR genotype contributing to the development of depression|journal=Molecular Psychiatry|volume=23|issue=1|pages=133–142|doi=10.1038/mp.2017.44|pmc=5628077|pmid=28373689}}</ref> Nghiên cứu tập trung vào các gen ứng viên cụ thể đã bị chỉ trích vì có xu hướng tạo ra các phát hiện dương tính giả. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Duncan LE, Keller MC|date=October 2011|title=A critical review of the first 10 years of candidate gene-by-environment interaction research in psychiatry|journal=The American Journal of Psychiatry|volume=168|issue=10|pages=1041–9|doi=10.1176/appi.ajp.2011.11020191|pmc=3222234|pmid=21890791}}</ref> Ngoài ra còn có những nỗ lực khác để xem xét sự tương tác giữa căng thẳng trong cuộc sống và nguy cơ mắc bệnh trầm cảm. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Peyrot WJ, Van der Auwera S, Milaneschi Y, Dolan CV, Madden PA, Sullivan PF, Strohmaier J, Ripke S, Rietschel M, Nivard MG, Mullins N, Montgomery GW, Henders AK, Heat AC, Fisher HL, Dunn EC, Byrne EM, etal|date=July 2018|title=Does Childhood Trauma Moderate Polygenic Risk for Depression? A Meta-analysis of 5765 Subjects From the Psychiatric Genomics Consortium|journal=Biological Psychiatry|volume=84|issue=2|pages=138–147|doi=10.1016/j.biopsych.2017.09.009|pmc=5862738|pmid=29129318}}</ref>

=== Các vấn đề sức khỏe khác ===
Trầm cảm cũng có thể là sản phẩm thứ phát sau một tình trạng bệnh mãn tính hoặc giai đoạn cuối, chẳng hạn như [[HIV/AIDS|HIV / AIDS]] hoặc hen suyễn, và có thể được gọi là "trầm cảm thứ phát". <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Simon GE|date=November 2001|title=Treating depression in patients with chronic disease: recognition and treatment are crucial; depression worsens the course of a chronic illness|journal=The Western Journal of Medicine|volume=175|issue=5|pages=292–93|doi=10.1136/ewjm.175.5.292|pmc=1071593|pmid=11694462}}</ref> <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Clayton PJ, Lewis CE|date=March 1981|title=The significance of secondary depression|journal=Journal of Affective Disorders|volume=3|issue=1|pages=25–35|doi=10.1016/0165-0327(81)90016-1|pmid=6455456}}</ref> Người ta vẫn chưa biết liệu các bệnh tiềm ẩn gây ra trầm cảm có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống hay không, do nguyên nhân chung (chẳng hạn như thoái hóa [[Hạch cơ bản|hạch nền]] trong [[bệnh Parkinson]] hoặc rối loạn điều hòa miễn dịch trong [[Hen phế quản|bệnh hen suyễn]] ). <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Kewalramani A, Bollinger ME, Postolache TT|date=1 January 2008|title=Asthma and Mood Disorders|journal=International Journal of Child Health and Human Development|volume=1|issue=2|pages=115–23|pmc=2631932|pmid=19180246}}</ref> Trầm cảm cũng có thể là do [[Iatrogenic|thuốc]] (kết quả của việc chăm sóc sức khỏe), chẳng hạn như trầm cảm do thuốc. Các liệu pháp liên quan đến chứng trầm cảm bao gồm [[interferon]], [[thuốc chẹn beta]], [[isotretinoin]], [[Biện pháp tránh thai|thuốc tránh thai]], <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Rogers D, Pies R|date=December 2008|title=General medical with depression drugs associated|journal=Psychiatry|volume=5|issue=12|pages=28–41|pmc=2729620|pmid=19724774}}</ref> thuốc trợ tim, [[thuốc chống co giật]], [[Thuốc chống đau nửa đầu|thuốc antimigraine]], [[thuốc chống loạn thần]] và [[Liệu pháp hormon|các thuốc nội tiết tố]] như [[chất chủ vận hormone giải phóng gonadotropin]] . <ref>{{Chú thích sách|url=https://www.ashp.org/DocLibrary/Policy/Suicidality/DID-Chapter18.aspx|title=Drug-Induced Diseases Section IV: Drug-Induced Psychiatric Diseases Chapter 18: Depression|vauthors=Botts S, Ryan M|pages=1–23|archive-url=https://web.archive.org/web/20101223035009/http://www.ashp.org/DocLibrary/Policy/Suicidality/DID-Chapter18.aspx|archive-date=23 December 2010}}</ref> Lạm dụng ma túy khi còn nhỏ cũng có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm sau này trong cuộc sống. <ref name="Brook_2002">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Brook DW, Brook JS, Zhang C, Cohen P, Whiteman M|date=November 2002|title=Drug use and the risk of major depressive disorder, alcohol dependence, and substance use disorders|journal=Archives of General Psychiatry|volume=59|issue=11|pages=1039–44|doi=10.1001/archpsyc.59.11.1039|pmid=12418937|doi-access=free}}</ref> Trầm cảm xảy ra do mang thai được gọi là [[trầm cảm sau sinh]], và được cho là kết quả của những thay đổi nội tiết tố liên quan đến [[Thai nghén|thai kỳ]] . <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Meltzer-Brody S|date=9 January 2017|title=New insights into perinatal depression: pathogenesis and treatment during pregnancy and postpartum|journal=Dialogues in Clinical Neuroscience|volume=13|issue=1|pages=89–100|pmc=3181972|pmid=21485749}}</ref> [[Trầm cảm theo mùa|Rối loạn cảm xúc theo mùa]], một dạng trầm cảm liên quan đến sự thay đổi ánh sáng mặt trời theo mùa, được cho là kết quả của việc giảm ánh sáng mặt trời. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Melrose S|date=1 January 2015|title=Seasonal Affective Disorder: An Overview of Assessment and Treatment Approaches|journal=Depression Research and Treatment|volume=2015|pages=178564|doi=10.1155/2015/178564|pmc=4673349|pmid=26688752}}</ref>

== Sinh lý bệnh ==
Sinh lý bệnh của trầm cảm vẫn chưa được hiểu rõ, nhưng các lý thuyết hiện tại xoay quanh hệ thống [[Monoamine|monoaminergic]], [[Nhịp điệu sinh học hàng ngày|nhịp sinh học]], rối loạn chức năng miễn dịch, rối loạn chức năng [[trục HPA]] và các bất thường về cấu trúc hoặc chức năng của mạch cảm xúc.

Lý thuyết monoamine, bắt nguồn từ hiệu quả của các loại thuốc monoaminergic trong điều trị trầm cảm, là lý thuyết thống trị cho đến gần đây  <sup class="noprint Inline-Template">&#x5D;</sup> . Lý thuyết cho rằng hoạt động không đủ của [[chất dẫn truyền thần kinh monoamine]] là nguyên nhân chính gây ra trầm cảm. Bằng chứng cho lý thuyết monoamine đến từ nhiều lĩnh vực. Thứ nhất, sự suy giảm cấp tính [[tryptophan]], một tiền chất cần thiết của [[serotonin]], một monoamine, có thể gây trầm cảm ở những người đang thuyên giảm hoặc người thân của bệnh nhân trầm cảm; điều này cho thấy rằng giảm dẫn truyền thần kinh serotonergic là quan trọng trong bệnh trầm cảm. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Ruhé HG, Mason NS, Schene AH|date=April 2007|title=Mood is indirectly related to serotonin, norepinephrine and dopamine levels in humans: a meta-analysis of monoamine depletion studies|journal=Molecular Psychiatry|volume=12|issue=4|pages=331–59|doi=10.1038/sj.mp.4001949|pmid=17389902|doi-access=free}}</ref> Thứ hai, mối tương quan giữa nguy cơ trầm cảm và tính đa hình trong gen [[5-HTTLPR]], mã hóa các thụ thể serotonin, cho thấy một mối liên hệ. Thứ ba, giảm kích thước của [[locus coeruleus]], giảm hoạt động của [[tyrosine hydroxylase]], tăng mật độ [[thụ thể adrenergic alpha-2]], và bằng chứng từ mô hình chuột cho thấy giảm dẫn truyền thần kinh [[Hệ thần kinh Adrenergic|adrenergic]] trong bệnh trầm cảm. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Delgado PL, Moreno FA|year=2000|title=Role of norepinephrine in depression|journal=The Journal of Clinical Psychiatry|volume=61 Suppl 1|pages=5–12|pmid=10703757}}</ref> Hơn nữa, giảm nồng độ [[Axit Homovanillic|axit homovanillic]], thay đổi phản ứng với [[dextroamphetamine]], phản ứng của các triệu chứng trầm cảm với [[Thụ thể dopamine|chất]] chủ vận [[thụ thể dopamine]], giảm liên kết [[thụ thể dopamine D1]] trong thể [[Striatum|vân]], <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Savitz JB, Drevets WC|date=April 2013|title=Neuroreceptor imaging in depression|journal=Neurobiology of Disease|volume=52|pages=49–65|doi=10.1016/j.nbd.2012.06.001|pmid=22691454|doi-access=free}}</ref> và [[Hiện tượng đa hình|tính đa hình]] của gen [[Thụ thể dopamine|thụ thể]] [[Dopamin|dopamine]] liên quan đến [[Dopamin|dopamine]], một monoamine khác, trong bệnh trầm cảm. <ref name="ReferenceA">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Hasler G|date=October 2010|title=Pathophysiology of depression: do we have any solid evidence of interest to clinicians?|journal=World Psychiatry|volume=9|issue=3|pages=155–61|doi=10.1002/j.2051-5545.2010.tb00298.x|pmc=2950973|pmid=20975857}}</ref> <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Dunlop BW, Nemeroff CB|date=March 2007|title=The role of dopamine in the pathophysiology of depression|url=https://www.researchgate.net/publication/6466257|journal=Archives of General Psychiatry|volume=64|issue=3|pages=327–37|doi=10.1001/archpsyc.64.3.327|pmid=17339521}}</ref> Cuối cùng, sự gia tăng hoạt động của [[monoamine oxidase]], chất phân hủy monoamine, có liên quan đến chứng trầm cảm. <ref name="Meyer06">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Meyer JH, Ginovart N, Boovariwala A, Sagrati S, Hussey D, Garcia A, Young T, Praschak-Rieder N, Wilson AA, Houle S|date=November 2006|title=Elevated monoamine oxidase a levels in the brain: an explanation for the monoamine imbalance of major depression|journal=Archives of General Psychiatry|volume=63|issue=11|pages=1209–16|doi=10.1001/archpsyc.63.11.1209|pmid=17088501|doi-access=free}}</ref> Tuy nhiên, lý thuyết này không phù hợp với thực tế rằng sự suy giảm serotonin không gây ra trầm cảm ở người khỏe mạnh, thực tế là thuốc chống trầm cảm làm tăng mức độ monoamines ngay lập tức nhưng phải mất vài tuần để phát huy tác dụng và sự tồn tại của thuốc chống trầm cảm không điển hình có thể có hiệu quả mặc dù không nhắm vào con đường này. . <ref>{{Chú thích sách|title=Neuropsychopharmacology: the fifth generation of progress: an official publication of the American College of Neuropsychopharmacology|date=2002|publisher=Lippincott Williams & Wilkins|isbn=978-0-7817-2837-9|editor-last=Davis|editor-first=Kenneth L|edition=5th|location=Philadelphia|pages=1139–63|editor-last2=Charney|editor-first2=Dennis|editor-last3=Coyle|editor-first3=Joseph T|editor-last4=Nemeroff|editor-first4=Charles}}</ref> Một lời giải thích được đề xuất cho sự chậm trễ trong điều trị, và hỗ trợ thêm cho sự thiếu hụt các monoamine, là giải mẫn cảm của sự tự ức chế trong [[Hạt nhân Raphe|nhân raphe]] bằng cách tăng serotonin qua trung gian của thuốc chống trầm cảm. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Adell A|date=April 2015|title=Revisiting the role of raphe and serotonin in neuropsychiatric disorders|journal=The Journal of General Physiology|volume=145|issue=4|pages=257–59|doi=10.1085/jgp.201511389|pmc=4380212|pmid=25825168}}</ref> Tuy nhiên, việc ức chế raphe lưng đã được đề xuất xảy ra do ''làm giảm'' hoạt động của hệ serotonergic trong sự suy giảm tryptophan, dẫn đến trạng thái trầm cảm do tăng serotonin. Tiếp tục phản bác giả thuyết monoamine là thực tế rằng những con chuột bị tổn thương raphe lưng không trầm cảm hơn so với đối chứng, phát hiện thấy tăng [[Axit 5-hydroxyindoleacetic|5-HIAA]] ở những bệnh nhân trầm cảm bình thường với điều trị [[Chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc|SSRI]] và sự ưa thích đối với [[Cacbohydrat|carbohydrate]] ở những bệnh nhân trầm cảm. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Andrews PW, Bharwani A, Lee KR, Fox M, Thomson JA|date=April 2015|title=Is serotonin an upper or a downer? The evolution of the serotonergic system and its role in depression and the antidepressant response|journal=Neuroscience and Biobehavioral Reviews|volume=51|pages=164–88|doi=10.1016/j.neubiorev.2015.01.018|pmid=25625874}}</ref> Vốn đã bị hạn chế, giả thuyết về monoamine đã được đơn giản hóa hơn nữa khi được trình bày với công chúng. <ref name="PLoS">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Lacasse JR, Leo J|date=December 2005|title=Serotonin and depression: a disconnect between the advertisements and the scientific literature|journal=PLOS Medicine|volume=2|issue=12|page=e392|doi=10.1371/journal.pmed.0020392|pmc=1277931|pmid=16268734}}</ref>

Các bất thường về hệ thống miễn dịch đã được quan sát thấy, bao gồm cả mức độ tăng của [[Cytokine|các cytokine]] liên quan đến việc tạo ra các [[Hành vi đau ốm|hành vi bệnh tật]] (trùng lặp với trầm cảm). <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Krishnadas R, Cavanagh J|date=May 2012|title=Depression: an inflammatory illness?|journal=Journal of Neurology, Neurosurgery, and Psychiatry|volume=83|issue=5|pages=495–502|doi=10.1136/jnnp-2011-301779|pmid=22423117|doi-access=free}}</ref> <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Patel A|date=September 2013|title=Review: the role of inflammation in depression|journal=Psychiatria Danubina|volume=25 Suppl 2|pages=S216–23|pmid=23995180}}</ref> <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Dowlati Y, Herrmann N, Swardfager W, Liu H, Sham L, Reim EK, Lanctôt KL|date=March 2010|title=A meta-analysis of cytokines in major depression|journal=Biological Psychiatry|volume=67|issue=5|pages=446–57|doi=10.1016/j.biopsych.2009.09.033|pmid=20015486}}</ref> Hiệu quả của [[Thuốc chống viêm không steroid|thuốc chống viêm]] không steroid (NSAID) và chất ức chế cytokine trong điều trị trầm cảm, <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Köhler O, Benros ME, Nordentoft M, Farkouh ME, Iyengar RL, Mors O, Krogh J|date=December 2014|title=Effect of anti-inflammatory treatment on depression, depressive symptoms, and adverse effects: a systematic review and meta-analysis of randomized clinical trials|url=https://pure.au.dk/ws/files/82334617/JAMA_Psych_Meta_analysis_anti_infl_intervention_depression.pdf|journal=JAMA Psychiatry|volume=71|issue=12|pages=1381–91|doi=10.1001/jamapsychiatry.2014.1611|pmid=25322082}}</ref> và bình thường hóa nồng độ cytokine sau khi điều trị thành công cho thấy thêm những bất thường của hệ thống miễn dịch trong bệnh trầm cảm. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Raedler TJ|date=November 2011|title=Inflammatory mechanisms in major depressive disorder|journal=Current Opinion in Psychiatry|volume=24|issue=6|pages=519–25|doi=10.1097/YCO.0b013e32834b9db6|pmid=21897249}}</ref>

Các bất thường về [[trục HPA]] đã được gợi ý ở bệnh trầm cảm do mối liên quan của [[CRHR1]] với bệnh trầm cảm và tần suất không ức chế [[Thử nghiệm ức chế dexamethasone|thử nghiệm dexamethasone]] tăng lên ở bệnh nhân trầm cảm. Tuy nhiên, sự bất thường này không đủ để làm công cụ chẩn đoán vì độ nhạy của nó chỉ là 44%. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Arana GW, Baldessarini RJ, Ornsteen M|date=December 1985|title=The dexamethasone suppression test for diagnosis and prognosis in psychiatry. Commentary and review|journal=Archives of General Psychiatry|volume=42|issue=12|pages=1193–204|doi=10.1001/archpsyc.1985.01790350067012|pmid=3000317}}</ref> <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Arana GW, Baldessarini RJ, Ornsteen M|date=December 1985|title=The dexamethasone suppression test for diagnosis and prognosis in psychiatry. Commentary and review|journal=Archives of General Psychiatry|volume=42|issue=12|pages=1193–204|doi=10.1001/archpsyc.1985.01790350067012|pmid=3000317}}</ref> Những bất thường liên quan đến căng thẳng này đã được giả thuyết là nguyên nhân của việc giảm thể tích hồi hải mã ở những bệnh nhân trầm cảm. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Varghese FP, Brown ES|date=August 2001|title=The Hypothalamic-Pituitary-Adrenal Axis in Major Depressive Disorder: A Brief Primer for Primary Care Physicians|journal=Primary Care Companion to the Journal of Clinical Psychiatry|volume=3|issue=4|pages=151–55|doi=10.4088/pcc.v03n0401|pmc=181180|pmid=15014598}}</ref> Hơn nữa, một phân tích tổng hợp mang lại hiệu quả giảm ức chế dexamethasone và tăng phản ứng với các tác nhân gây căng thẳng tâm lý. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Lopez-Duran NL, Kovacs M, George CJ|date=October 2009|title=Hypothalamic-pituitary-adrenal axis dysregulation in depressed children and adolescents: a meta-analysis|journal=Psychoneuroendocrinology|volume=34|issue=9|pages=1272–83|doi=10.1016/j.psyneuen.2009.03.016|pmc=2796553|pmid=19406581}}</ref> Các kết quả bất thường hơn nữa đã bị che khuất với [[Phản ứng đánh thức Cortisol|phản ứng thức tỉnh cortisol]], với việc tăng phản ứng có liên quan đến trầm cảm. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Dedovic K, Ngiam J|date=14 May 2015|title=The cortisol awakening response and major depression: examining the evidence|journal=Neuropsychiatric Disease and Treatment|volume=11|pages=1181–89|doi=10.2147/NDT.S62289|pmc=4437603|pmid=25999722}}</ref>

Các lý thuyết thống nhất các phát hiện về hình ảnh thần kinh đã được đề xuất. Mô hình đầu tiên được đề xuất là "Mô hình vỏ não Limbic", liên quan đến sự tăng động của các vùng cạnh bụng và sự giảm hoạt động của các vùng điều hòa phía trước trong quá trình xử lý cảm xúc. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Mayberg HS|date=1 August 1997|title=Limbic-cortical dysregulation: a proposed model of depression|journal=The Journal of Neuropsychiatry and Clinical Neurosciences|volume=9|issue=3|pages=471–81|doi=10.1176/jnp.9.3.471|pmid=9276848}}</ref> Một mô hình khác, "mô hình Corito-Striatal", gợi ý rằng những bất thường của [[Vỏ não trước trán|vỏ não trước]] trong việc điều chỉnh cấu trúc thể vân và dưới vỏ dẫn đến trầm cảm. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Graham J, Salimi-Khorshidi G, Hagan C, Walsh N, Goodyer I, Lennox B, Suckling J|date=November 2013|title=Meta-analytic evidence for neuroimaging models of depression: state or trait?|journal=Journal of Affective Disorders|volume=151|issue=2|pages=423–31|doi=10.1016/j.jad.2013.07.002|pmid=23890584|doi-access=free}}</ref> Một mô hình khác đề xuất sự tăng động của các [[Mạng lưới đối tượng|cấu trúc khả năng]] trong việc xác định các kích thích tiêu cực và sự giảm hoạt động của các cấu trúc điều tiết vỏ não dẫn đến [[Thiên vị cảm xúc|sự thiên vị cảm xúc]] tiêu cực và trầm cảm, phù hợp với các nghiên cứu về sự thiên vị cảm xúc. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Hamilton JP, Etkin A, Furman DJ, Lemus MG, Johnson RF, Gotlib IH|date=July 2012|title=Functional neuroimaging of major depressive disorder: a meta-analysis and new integration of base line activation and neural response data|journal=The American Journal of Psychiatry|volume=169|issue=7|pages=693–703|doi=10.1176/appi.ajp.2012.11071105|pmid=22535198}}</ref>


== Các triệu chứng và dấu hiệu ==
== Các triệu chứng và dấu hiệu ==
Dòng 36: Dòng 53:
Trầm cảm thường cùng tồn tại với các rối loạn thể chất phổ biến ở người cao tuổi, chẳng hạn như [[Tai biến mạch máu não|đột quỵ]], các [[bệnh tim mạch]] khác, [[bệnh Parkinson]] và [[Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính|bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính]] . <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Yohannes AM, Baldwin RC|year=2008|title=Medical Comorbidities in Late-Life Depression|url=http://www.psychiatrictimes.com/depression/article/10168/1358135|journal=Psychiatric Times|volume=25|issue=14}}</ref>
Trầm cảm thường cùng tồn tại với các rối loạn thể chất phổ biến ở người cao tuổi, chẳng hạn như [[Tai biến mạch máu não|đột quỵ]], các [[bệnh tim mạch]] khác, [[bệnh Parkinson]] và [[Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính|bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính]] . <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Yohannes AM, Baldwin RC|year=2008|title=Medical Comorbidities in Late-Life Depression|url=http://www.psychiatrictimes.com/depression/article/10168/1358135|journal=Psychiatric Times|volume=25|issue=14}}</ref>


=== Tiêu chuẩn DSM IV dùng chẩn đoán trầm cảm ===
== Chẩn đoán ==

Trong vòng hai tuần, hầu như mỗi ngày:<ref name="thaythuoc">[http://www.maihuong.gov.vn/vi/cac-roi-loan-tam-than/40-benh-tram-cam.htm BV tâm thần ban ngày Mai Hương]</ref>
=== Đánh giá lâm sàng ===
Đánh giá chẩn đoán có thể được thực hiện bởi một [[bác sĩ đa khoa]] được đào tạo phù hợp, hoặc bởi [[Nhà tâm thần học|bác sĩ tâm thần]] hoặc [[nhà tâm lý học]], <ref name="NIMHPub3">{{Chú thích sách|url=http://www.nimh.nih.gov/health/publications/depression/nimhdepression.pdf|title=Depression|publisher=[[National Institute of Mental Health]] (NIMH)|access-date=7 September 2008|archive-url=https://web.archive.org/web/20110727123744/http://www.nimh.nih.gov/health/publications/depression/nimhdepression.pdf|archive-date=27 July 2011}}</ref> người [[Lịch sử tâm thần|ghi lại]] hoàn cảnh hiện tại, tiền sử tiểu sử, các triệu chứng hiện tại, tiền sử gia đình và việc sử dụng rượu và ma túy của người đó. Đánh giá cũng bao gồm [[kiểm tra trạng thái tinh thần]], là đánh giá về tâm trạng và nội dung suy nghĩ hiện tại của người đó, đặc biệt là sự hiện diện của các chủ đề về sự tuyệt vọng hoặc [[bi quan]], [[Tự hại|tự làm hại]] hoặc tự tử và không có suy nghĩ hoặc kế hoạch tích cực. <ref name="NIMHPub3" /> Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần chuyên khoa rất hiếm ở các vùng nông thôn, do đó việc chẩn đoán và quản lý phần lớn được giao cho [[Ưu tiên hàng đầu|các]] bác sĩ lâm sàng [[Ưu tiên hàng đầu|chăm sóc ban đầu]] . <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Kaufmann IM|date=September 1993|title=Rural psychiatric services. A collaborative model|journal=Canadian Family Physician|volume=39|pages=1957–61|pmc=2379905|pmid=8219844}}</ref> Vấn đề này thậm chí còn được đánh dấu nhiều hơn ở các nước đang phát triển. <ref>{{Chú thích web|url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/health/492941.stm|tựa đề=Call for action over Third World depression|ngày=1 November 1999|website=BBC News (Health)|nhà xuất bản=British Broadcasting Corporation (BBC)|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20080513222415/http://news.bbc.co.uk/1/hi/health/492941.stm|ngày lưu trữ=13 May 2008|ngày truy cập=11 October 2008}}</ref> [[Thang điểm|Thang đánh giá]] không được sử dụng để chẩn đoán trầm cảm, nhưng chúng cung cấp dấu hiệu về mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng trong một khoảng thời gian, do đó, một người đạt điểm trên ngưỡng giới hạn nhất định có thể được đánh giá kỹ lưỡng hơn để chẩn đoán rối loạn trầm cảm. Một số thang đánh giá được sử dụng cho mục đích này; <ref name="pmid12358212">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Sharp LK, Lipsky MS|date=September 2002|title=Screening for depression across the lifespan: a review of measures for use in primary care settings|journal=American Family Physician|volume=66|issue=6|pages=1001–08|pmid=12358212}}</ref> chúng bao gồm [[Thang điểm đánh giá Hamilton cho bệnh trầm cảm|Thang đánh giá Hamilton về Bệnh trầm cảm]], <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Zimmerman M, Chelminski I, Posternak M|date=September 2004|title=A review of studies of the Hamilton depression rating scale in healthy controls: implications for the definition of remission in treatment studies of depression|journal=The Journal of Nervous and Mental Disease|volume=192|issue=9|pages=595–601|doi=10.1097/01.nmd.0000138226.22761.39|pmid=15348975}}</ref> [[Thang đo trầm cảm của Beck|Bản kiểm kê về bệnh trầm cảm Beck]] <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=McPherson A, Martin CR|date=February 2010|title=A narrative review of the Beck Depression Inventory (BDI) and implications for its use in an alcohol-dependent population|journal=Journal of Psychiatric and Mental Health Nursing|volume=17|issue=1|pages=19–30|doi=10.1111/j.1365-2850.2009.01469.x|pmid=20100303}}</ref> hoặc Bản [[Bản câu hỏi về hành vi tự tử-Đã sửa đổi|câu hỏi về hành vi tự tử đã được sửa đổi]] . <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Osman A, Bagge CL, Gutierrez PM, Konick LC, Kopper BA, Barrios FX|date=December 2001|title=The Suicidal Behaviors Questionnaire-Revised (SBQ-R): validation with clinical and nonclinical samples|journal=Assessment|volume=8|issue=4|pages=443–54|doi=10.1177/107319110100800409|pmid=11785588}}</ref><ref name="thaythuoc">[http://www.maihuong.gov.vn/vi/cac-roi-loan-tam-than/40-benh-tram-cam.htm BV tâm thần ban ngày Mai Hương]</ref>

[[Bác sĩ chăm sóc chính|Các bác sĩ chăm sóc chính]] và các [[Bác sĩ chăm sóc chính|bác sĩ]] không phải bác sĩ tâm thần khác gặp khó khăn hơn trong việc nhận thức kém và điều trị trầm cảm so với [[Nhà tâm thần học|bác sĩ tâm thần]], một phần do các [[Trầm cảm|triệu chứng thể chất]] thường đi kèm với trầm cảm, ngoài ra còn có nhiều rào cản về bệnh nhân, nhà cung cấp và hệ thống tiềm năng. Một đánh giá cho thấy rằng các bác sĩ không chuyên khoa tâm thần bỏ sót khoảng 2/3 số trường hợp, mặc dù điều này đã được cải thiện phần nào trong các nghiên cứu gần đây. <ref name="pmid17968628">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Cepoiu M, McCusker J, Cole MG, Sewitch M, Belzile E, Ciampi A|date=January 2008|title=Recognition of depression by non-psychiatric physicians—a systematic literature review and meta-analysis|journal=Journal of General Internal Medicine|volume=23|issue=1|pages=25–36|doi=10.1007/s11606-007-0428-5|pmc=2173927|pmid=17968628}}</ref>

Trước khi chẩn đoán rối loạn trầm cảm nặng, bác sĩ thường tiến hành kiểm tra y tế và các cuộc điều tra được lựa chọn để loại trừ các nguyên nhân khác gây ra các triệu chứng. Chúng bao gồm các xét nghiệm máu đo [[Hormone kích thích tuyến giáp|TSH]] và [[Hormone tuyến giáp|thyroxine]] để loại trừ [[suy giáp]] ; [[Xét nghiệm máu|chất điện giải cơ bản]] và [[canxi]] huyết thanh để loại trừ [[rối loạn chuyển hóa]] ; và công thức [[Công thức máu|máu đầy đủ]] bao gồm [[Tốc độ lắng hồng cầu|ESR]] để loại trừ [[nhiễm trùng toàn thân]] hoặc bệnh mãn tính. <ref name="lancet">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Dale J, Sorour E, Milner G|year=2008|title=Do psychiatrists perform appropriate physical investigations for their patients? A review of current practices in a general psychiatric inpatient and outpatient setting|journal=Journal of Mental Health|volume=17|issue=3|pages=293–98|doi=10.1080/09638230701498325}}</ref> Các phản ứng có hại đối với thuốc hoặc lạm dụng rượu cũng thường được loại trừ. Nồng độ [[testosterone]] có thể được đánh giá để chẩn đoán [[Suy sinh dục|thiểu năng sinh dục]], một nguyên nhân gây trầm cảm ở nam giới. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Orengo CA, Fullerton G, Tan R|date=October 2004|title=Male depression: a review of gender concerns and testosterone therapy|journal=Geriatrics|volume=59|issue=10|pages=24–30|pmid=15508552}}</ref> Mức độ [[vitamin D]] có thể được đánh giá, vì mức độ vitamin D thấp có liên quan đến nguy cơ trầm cảm cao hơn. <ref name="pmid27750060">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Parker GB, Brotchie H, Graham RK|date=January 2017|title=Vitamin D and depression|journal=Journal of Affective Disorders|volume=208|pages=56–61|doi=10.1016/j.jad.2016.08.082|pmid=27750060}}</ref>

Những phàn nàn về nhận thức chủ quan xuất hiện ở những người già bị trầm cảm, nhưng chúng cũng có thể là dấu hiệu của sự khởi đầu của [[Suy giảm trí nhớ|rối loạn sa sút trí tuệ]], chẳng hạn như [[bệnh Alzheimer]] . <ref name="pmid17047326">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Reid LM, Maclullich AM|year=2006|title=Subjective memory complaints and cognitive impairment in older people|journal=Dementia and Geriatric Cognitive Disorders|volume=22|issue=5–6|pages=471–85|doi=10.1159/000096295|pmid=17047326}}</ref> <ref name="pmid9720486">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Katz IR|year=1998|title=Diagnosis and treatment of depression in patients with Alzheimer's disease and other dementias|journal=The Journal of Clinical Psychiatry|volume=59 Suppl 9|pages=38–44|pmid=9720486}}</ref> [[Đánh giá tâm lý thần kinh|Kiểm tra nhận thức]] và chụp ảnh não có thể giúp phân biệt trầm cảm với sa sút trí tuệ. <ref name="pmid18004006">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Wright SL, Persad C|date=December 2007|title=Distinguishing between depression and dementia in older persons: neuropsychological and neuropathological correlates|journal=Journal of Geriatric Psychiatry and Neurology|volume=20|issue=4|pages=189–98|doi=10.1177/0891988707308801|pmid=18004006}}</ref> [[Chụp cắt lớp vi tính|Chụp CT]] có thể loại trừ bệnh lý não ở những người có triệu chứng loạn thần, khởi phát nhanh hoặc bất thường. <ref>{{Harvard citation no brackets|Sadock|2002}}</ref> Không có xét nghiệm sinh học nào xác nhận trầm cảm nặng. <ref>{{Harvard citation no brackets|Sadock|2002}}</ref> Nói chung, các cuộc điều tra không được lặp lại cho một đợt tiếp theo trừ khi có [[Chỉ định (thuốc)|chỉ định]] y tế.

=== Tiêu chí DSM và ICD ===
Các tiêu chí được sử dụng rộng rãi nhất để chẩn đoán các tình trạng trầm cảm được tìm thấy trong ''[[Cẩm nang chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần|Sổ tay Thống kê và Chẩn đoán về Rối loạn Tâm thần của]]'' [[Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ|Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ]] ''[[Cẩm nang chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần|và]]'' ''[[Phân loại thống kê quốc tế về các bệnh tật và vấn đề sức khỏe liên quan|Phân loại Thống kê Quốc tế về Bệnh tật và Các Vấn đề Sức khỏe Liên quan của]]'' [[Tổ chức Y tế Thế giới]] trong đó sử dụng tên ''giai đoạn trầm cảm'' cho một ''rối loạn trầm cảm từng'' đợt và ''tái phát'' nhiều đợt. <ref name="ICD-10">{{Chú thích web|url=http://apps.who.int/classifications/icd10/browse/2010/en#/F30-F39|tựa đề=Mental and behavioural disorders: Mood [affective] disorders|ngày=2010|nhà xuất bản=[[World Health Organization]]|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20141102133725/http://apps.who.int/classifications/icd10/browse/2010/en#/F30-F39|ngày lưu trữ=2 November 2014|ngày truy cập=8 November 2008}}</ref> Hệ thống thứ hai thường được sử dụng ở các nước Châu Âu, trong khi hệ thống thứ nhất được sử dụng ở Hoa Kỳ và nhiều quốc gia không thuộc Châu Âu khác, <ref>{{Harvard citation no brackets|Sadock|2002}}</ref> và các tác giả của cả hai đã làm việc để phù hợp với hệ thống kia. <ref name="APA372">{{Harvard citation no brackets|American Psychiatric Association|2000a}}</ref>

Cả DSM-5 và ICD-10 đều đánh dấu các triệu chứng trầm cảm điển hình (chính). <ref name="DSMvsICD">{{Chú thích sách|title=Biology of Depression|vauthors=Gruenberg AM, Goldstein RD, Pincus HA|work=Biology of Depression: From Novel Insights to Therapeutic Strategies (eds J. Licinio and M-L Wong)|publisher=Wiley-VCH Verlag GmbH|year=2005|isbn=978-3-527-61967-2|pages=1–12|chapter=Classification of Depression: Research and Diagnostic Criteria: DSM-IV and ICD-10|doi=10.1002/9783527619672.ch1|access-date=30 October 2008|chapter-url=http://media.wiley.com/product_data/excerpt/50/35273078/3527307850.pdf}}</ref> ICD-10 định nghĩa ba triệu chứng trầm cảm điển hình (chán nản tâm trạng, [[Mất hứng thú|anhedonia]], và giảm năng lượng), hai trong số đó nên có mặt để xác định chẩn đoán rối loạn trầm cảm. <ref name="DSM-10 diagnosis">{{Chú thích web|url=https://www.who.int/classifications/icd/en/bluebook.pdf|tựa đề=The ICD-10 Classification of Mental and Behavioural Disorders: Clinical descriptions and diagnostic guidelines|ngày=2010|nhà xuất bản=[[World Health Organization]]|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20140323025330/http://www.who.int/classifications/icd/en/bluebook.pdf|ngày lưu trữ=23 March 2014|ngày truy cập=12 November 2014}}</ref> <ref>The ICD-10 classification of mental and behavioral disorders. Clinical description and diagnostic guideline. Geneva: World Health Organization, 1992</ref> Theo DSM-5, có hai triệu chứng trầm cảm chính - tâm trạng chán nản và mất hứng thú / niềm vui trong các hoạt động (anhedonia). Những triệu chứng này, cũng như năm trong số chín triệu chứng cụ thể hơn được liệt kê, phải thường xuyên xảy ra trong hơn hai tuần (đến mức độ nó làm suy yếu chức năng) để chẩn đoán. <ref>{{Chú thích web|url=https://www.psnpaloalto.com/wp/wp-content/uploads/2010/12/Depression-Diagnostic-Criteria-and-Severity-Rating.pdf|tựa đề=Diagnostic Criteria for Major Depressive Disorder and Depressive Episodes|website=City of Palo Alto Project Safety Net}}</ref>

Rối loạn trầm cảm nặng được phân loại là rối loạn tâm trạng trong DSM-5. <ref name=":1">{{Chú thích tạp chí|last=Parker|first=George F.|date=1 June 2014|title=DSM-5 and Psychotic and Mood Disorders|url=http://jaapl.org/content/42/2/182|journal=Journal of the American Academy of Psychiatry and the Law Online|language=en|volume=42|issue=2|pages=182–190|issn=1093-6793|pmid=24986345}}</ref> Chẩn đoán xoay quanh sự hiện diện của [[Giai đoạn trầm cảm chính|các giai đoạn trầm cảm chính]] đơn lẻ hoặc tái phát. <ref name="APA3494">{{Harvard citation no brackets|American Psychiatric Association|2000a}}</ref> Các vòng loại hơn nữa được sử dụng để phân loại cả chính tập và diễn biến của rối loạn. Danh mục [[Rối loạn trầm cảm không được chỉ định nếu không|Rối loạn trầm cảm không xác định]] được chẩn đoán nếu biểu hiện của giai đoạn trầm cảm không đáp ứng các tiêu chí cho giai đoạn trầm cảm nặng. <ref name=":1" /> Hệ thống ICD-10 không sử dụng thuật ngữ ''rối loạn trầm cảm nặng'' nhưng liệt kê các tiêu chí rất giống nhau để chẩn đoán một giai đoạn trầm cảm (nhẹ, vừa hoặc nặng); thuật ngữ ''tái phát'' có thể được thêm vào nếu đã có nhiều đợt trầm cảm mà không có [[hưng cảm]] . <ref name="ICD-102">{{Chú thích web|url=http://apps.who.int/classifications/icd10/browse/2010/en#/F30-F39|tựa đề=Mental and behavioural disorders: Mood [affective] disorders|ngày=2010|nhà xuất bản=[[World Health Organization]]|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20141102133725/http://apps.who.int/classifications/icd10/browse/2010/en#/F30-F39|ngày lưu trữ=2 November 2014|ngày truy cập=8 November 2008}}</ref>

==== Giai đoạn trầm cảm chính ====
[[Tập tin:A_wretched_man_with_an_approaching_depression;_represented_b_Wellcome_V0011145.jpg|liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:A_wretched_man_with_an_approaching_depression;_represented_b_Wellcome_V0011145.jpg|trái|nhỏ|Biếm họa về một người đàn ông bị trầm cảm]]
Một giai đoạn trầm cảm chính được đặc trưng bởi sự hiện diện của tâm trạng chán nản nghiêm trọng, kéo dài ít nhất hai tuần. <ref name="APA3495">{{Harvard citation no brackets|American Psychiatric Association|2000a}}</ref> Các tập có thể bị cô lập hoặc tái phát và được phân loại là nhẹ (ít triệu chứng vượt quá tiêu chí tối thiểu), trung bình hoặc nặng (ảnh hưởng rõ rệt đến hoạt động xã hội hoặc nghề nghiệp). Một giai đoạn có các biểu hiện loạn thần — thường được gọi là ''[[Trầm cảm tâm thần|trầm cảm loạn thần]]'' — được tự động xếp hạng là nghiêm trọng. <ref name=":12">{{Chú thích tạp chí|last=Parker|first=George F.|date=1 June 2014|title=DSM-5 and Psychotic and Mood Disorders|url=http://jaapl.org/content/42/2/182|journal=Journal of the American Academy of Psychiatry and the Law Online|language=en|volume=42|issue=2|pages=182–190|issn=1093-6793|pmid=24986345}}</ref> Nếu bệnh nhân đã có một giai đoạn [[hưng cảm]] hoặc [[Hypomania|tâm trạng tăng cao rõ rệt]], thì chẩn đoán [[rối loạn lưỡng cực]] sẽ được thực hiện thay thế. Trầm cảm không có hưng cảm đôi khi được gọi là ''đơn cực'' vì tâm trạng vẫn ở một trạng thái cảm xúc hoặc "một cực cảm xúc". <ref>{{Harvard citation no brackets|Parker|1996}}</ref>

[[DSM-IV TR|DSM-IV-TR]] loại trừ các trường hợp các triệu chứng là kết quả của việc [[Nỗi buồn|mất đi]], mặc dù người mất bình thường có thể tiến triển thành giai đoạn trầm cảm nếu tâm trạng vẫn tiếp diễn và các đặc điểm đặc trưng của giai đoạn trầm cảm nặng phát triển. <ref name="APA352">{{Harvard citation no brackets|American Psychiatric Association|2000a}}</ref> Các tiêu chí đã bị chỉ trích vì chúng không tính đến bất kỳ khía cạnh nào khác của bối cảnh cá nhân và xã hội mà ở đó bệnh trầm cảm có thể xảy ra. <ref name="Wakefield07">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Wakefield JC, Schmitz MF, First MB, Horwitz AV|date=April 2007|title=Extending the bereavement exclusion for major depression to other losses: evidence from the National Comorbidity Survey|journal=Archives of General Psychiatry|volume=64|issue=4|pages=433–40|doi=10.1001/archpsyc.64.4.433|pmid=17404120|lay-url=https://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2007/04/02/AR2007040201693.html|lay-source=The Washington Post|lay-date=3 April 2007|doi-access=free}}</ref> Ngoài ra, một số nghiên cứu đã tìm thấy ít hỗ trợ thực nghiệm cho các tiêu chí cắt DSM-IV, cho thấy chúng là một quy ước chẩn đoán áp dụng cho một loạt các triệu chứng trầm cảm với mức độ nghiêm trọng và thời gian khác nhau. <ref name="Kendler98">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Kendler KS, Gardner CO|date=February 1998|title=Boundaries of major depression: an evaluation of DSM-IV criteria|journal=The American Journal of Psychiatry|volume=155|issue=2|pages=172–77|doi=10.1176/ajp.155.2.172|doi-broken-date=19 January 2021|pmid=9464194}}</ref> Mất mạng không còn là một tiêu chí loại trừ trong DSM-5, và giờ đây, bác sĩ lâm sàng phải phân biệt giữa phản ứng bình thường với mất mát và MDD. Loại trừ là một loạt các chẩn đoán liên quan, bao gồm [[Bệnh suy thận|chứng]] rối [[Bệnh suy thận|loạn nhịp tim]], liên quan đến rối loạn tâm trạng mãn tính nhưng nhẹ hơn; <ref name="harvnb">{{Harvard citation no brackets|Sadock|2002}}</ref> [[trầm cảm ngắn hạn tái phát]], bao gồm các giai đoạn trầm cảm ngắn gọn; <ref>{{Harvard citation no brackets|American Psychiatric Association|2000a}}</ref> <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Carta MG, Altamura AC, Hardoy MC, Pinna F, Medda S, Dell'Osso L, Carpiniello B, Angst J|date=June 2003|title=Is recurrent brief depression an expression of mood spectrum disorders in young people? Results of a large community sample|journal=European Archives of Psychiatry and Clinical Neuroscience|volume=253|issue=3|pages=149–53|doi=10.1007/s00406-003-0418-5|pmid=12904979|hdl-access=free}}</ref> [[Rối loạn trầm cảm nhẹ]], theo đó chỉ có một số triệu chứng của trầm cảm nặng; <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Rapaport MH, Judd LL, Schettler PJ, Yonkers KA, Thase ME, Kupfer DJ, Frank E, Plewes JM, Tollefson GD, Rush AJ|date=April 2002|title=A descriptive analysis of minor depression|journal=The American Journal of Psychiatry|volume=159|issue=4|pages=637–43|doi=10.1176/appi.ajp.159.4.637|pmid=11925303}}</ref> và [[Rối loạn điều chỉnh|rối loạn điều chỉnh với tâm trạng chán nản]], biểu thị tâm trạng thấp do phản ứng tâm lý trước một sự kiện hoặc tác nhân gây [[Căng thẳng (sinh học)|căng thẳng]] có thể xác định được. <ref name="psychiatric355">{{Harvard citation no brackets|American Psychiatric Association|2000a}}</ref> Ba rối loạn trầm cảm mới đã được thêm vào DSM-5: [[rối loạn điều hòa tâm trạng rối loạn]], được phân loại theo sự cáu kỉnh đáng kể ở thời thơ ấu, <ref>{{Chú thích web|url=https://www.nimh.nih.gov/health/topics/disruptive-mood-dysregulation-disorder-dmdd/disruptive-mood-dysregulation-disorder.shtml|tựa đề=NIMH » Disruptive Mood Dysregulation Disorder|website=www.nimh.nih.gov|ngày truy cập=21 February 2019}}</ref> [[Rối loạn hoảng loạn tiền kinh nguyệt|rối loạn]] trầm cảm [[Rối loạn hoảng loạn tiền kinh nguyệt|tiền kinh nguyệt (PMDD)]], gây ra các giai đoạn lo lắng, trầm cảm hoặc cáu kỉnh trong một hoặc hai tuần trước đó [[kinh nguyệt]] của phụ nữ, <ref>{{Chú thích web|url=https://www.womenshealth.gov/menstrual-cycle/premenstrual-syndrome/premenstrual-dysphoric-disorder-pmdd|tựa đề=Premenstrual dysphoric disorder (PMDD)|ngày=12 July 2017|website=womenshealth.gov|ngôn ngữ=en}}</ref> và [[Bệnh suy thận|rối loạn trầm cảm dai dẳng]] . <ref name=":13">{{Chú thích tạp chí|last=Parker|first=George F.|date=1 June 2014|title=DSM-5 and Psychotic and Mood Disorders|url=http://jaapl.org/content/42/2/182|journal=Journal of the American Academy of Psychiatry and the Law Online|language=en|volume=42|issue=2|pages=182–190|issn=1093-6793|pmid=24986345}}</ref>


==== Các phân loại nhỏ hơn ====
Tính khí sầu muộn '''và/hoặc''' từ chối những nguồn vui vốn có '''cộng với''' ít nhất 4 trong số các [[triệu chứng]] sau:
DSM-5 đưa ra sáu loại phụ khác của trầm cảm, được gọi là ''các xác định'', ngoài việc ghi nhận độ dài, mức độ nghiêm trọng và sự hiện diện của các đặc điểm rối loạn tâm thần:
* Giảm hoặc lên cân, giảm hoặc tăng cảm giác ngon miệng.
* [[Mất ngủ]] hoặc ngủ triền miên.
* Kích động hoặc trở nên chậm chạp.
* Mệt mỏi hoặc mất sức.
* Cảm giác vô dụng, vô giá trị hoặc mặc cảm tội lỗi.
* Giảm khả năng tập trung, do dự.
* Hay nghĩ đến [[chết|cái chết]], có ý tưởng hoặc hành vi [[tự sát]].
* Không còn ham muốn các lĩnh vực trong cuộc sống như phim ảnh, các hoạt động thế thao các hoạt động xã hội rơi vào trạng thái buồn không lý do, chán nản không muốn phấn đấu, làm việc. Người trầm cảm luôn có cảm giác bị bỏ rơi, bị mọi người xa lánh.


* " [[Trầm cảm u sầu]] " được đặc trưng bởi [[Mất hứng thú|mất niềm vui trong hầu hết hoặc tất cả các hoạt động]], không phản ứng với các kích thích thú vị, chất lượng tâm trạng chán nản rõ ràng hơn so với [[Nỗi buồn|đau buồn]] hoặc mất mát, các triệu chứng tồi tệ hơn vào buổi sáng, sớm- thức dậy vào buổi sáng, [[chậm phát triển tâm thần vận động]], sụt cân quá mức (không nên nhầm lẫn với [[Chán ăn tâm thần|chứng chán ăn tâm thần]] ), hoặc mặc cảm quá mức.<ref>{{Harvard citation no brackets|American Psychiatric Association|2000a}}</ref>]
=== Chuẩn ICD-10 F32 ===
* " [[Trầm cảm không điển hình]] " được đặc trưng bởi phản ứng tâm trạng (chứng rối loạn trương lực cơ nghịch lý) và tích cực, [[tăng cân]] đáng kể hoặc tăng cảm giác thèm ăn (ăn thoải mái), ngủ quá nhiều hoặc buồn ngủ ( [[mất ngủ]] ), cảm giác nặng nề ở các chi được gọi là liệt chì và suy giảm chức năng xã hội đáng kể như một hệ quả của quá mẫn cảm với sự [[từ chối xã hội|từ chối giữa các cá nhân với nhau]] .<ref>{{Harvard citation no brackets|American Psychiatric Association|2000a}}</ref>
Theo ICD:<ref name="thaythuoc"/>
* "Trầm cảm [[Catatonia|catatonic]] " là một dạng trầm cảm nghiêm trọng và hiếm gặp liên quan đến rối loạn hành vi vận động và các triệu chứng khác. Ở đây, người đó bị câm và gần như sững sờ, bất động hoặc biểu hiện những chuyển động không mục đích hoặc thậm chí kỳ quái. Các triệu chứng catatonic cũng xảy ra trong [[Tâm thần phân liệt|bệnh tâm thần phân liệt]] hoặc trong các giai đoạn hưng cảm, hoặc có thể do [[Hội chứng ác tính thần kinh|hội chứng ác tính an thần kinh]] gây ra.<ref>{{Harvard citation no brackets|American Psychiatric Association|2000a}}</ref>
* F32.0 Giai đoạn trầm cảm nhẹ (người bị bệnh cảm thấy không được khỏe và tìm sự giúp đỡ của bác sĩ, sinh hoạt bình thường).
* "Trầm cảm với [[Lo âu|lo âu lo lắng]] " đã được thêm vào DSM-V như một phương tiện để nhấn mạnh sự đồng xuất hiện giữa trầm cảm hoặc [[hưng cảm]] và lo lắng, cũng như nguy cơ tự tử của những người trầm cảm với lo lắng. Chỉ định theo cách như vậy cũng có thể giúp tiên lượng những người được chẩn đoán mắc chứng trầm cảm hoặc rối loạn lưỡng cực.<ref name=":14">{{Chú thích tạp chí|last=Parker|first=George F.|date=1 June 2014|title=DSM-5 and Psychotic and Mood Disorders|url=http://jaapl.org/content/42/2/182|journal=Journal of the American Academy of Psychiatry and the Law Online|language=en|volume=42|issue=2|pages=182–190|issn=1093-6793|pmid=24986345}}</ref>
* F32.1 Trầm cảm mức trung bình (những yêu cầu trong công việc và việc nhà không thể đảm nhiệm nổi).
* "Trầm cảm khởi phát [[Trầm cảm sau sinh|khi sinh nở]]" là tình trạng trầm cảm dữ dội, kéo dài và đôi khi tàn phế ở phụ nữ sau khi sinh hoặc khi phụ nữ đang mang thai. DSM-IV-TR đã sử dụng phân loại "trầm cảm sau sinh", nhưng điều này đã được thay đổi để không loại trừ các trường hợp phụ nữ bị trầm cảm khi mang thai. [110] Trầm cảm khởi phát chu sinh có tỷ lệ mắc bệnh ở các bà mẹ mới sinh là 10-15%. DSM-V quy định rằng, để được coi là trầm cảm khi khởi phát chu sinh, khởi phát xảy ra khi mang thai hoặc trong vòng một tháng sau khi sinh. Người ta nói rằng trầm cảm sau sinh có thể kéo dài đến ba tháng.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.emedicine.com/med/topic3408.htm|tựa đề=Postpartum depression|tác giả=Nonacs, Ruta M|ngày=4 December 2007|nhà xuất bản=eMedicine|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20081013205912/http://www.emedicine.com/med/topic3408.htm|ngày lưu trữ=13 October 2008|ngày truy cập=30 October 2008}}</ref>
* F32.2 Trầm cảm nặng (bệnh nhân cần được điều trị tâm lý xã hội).
* " [[Trầm cảm theo mùa|Rối loạn cảm xúc theo mùa]] " (SAD) là một dạng trầm cảm, trong đó các giai đoạn trầm cảm xảy ra vào mùa thu hoặc mùa đông và hết vào mùa xuân. Chẩn đoán được thực hiện nếu ít nhất hai đợt xảy ra trong những tháng lạnh hơn mà không xảy ra vào các thời điểm khác, trong khoảng thời gian hai năm hoặc lâu hơn.<ref>{{Harvard citation no brackets|American Psychiatric Association|2000a}}</ref>
* F32.3 Trầm cảm nặng kèm theo những biểu hiện thần kinh khác.
* F32.8 và 9 Những giai đoạn trầm cảm khác.


=== Chẩn đoán phân biệt ===
== Nguy cơ tự sát ở người bị trầm cảm ==
Để xác định rối loạn trầm cảm nặng là chẩn đoán có khả năng xảy ra nhất, các [[Chẩn đoán phân biệt|chẩn đoán tiềm năng]] khác phải được xem xét, bao gồm rối loạn nhịp tim, rối loạn điều chỉnh với tâm trạng chán nản hoặc rối loạn lưỡng cực. [[Bệnh suy thận|Bệnh]] rối loạn [[Bệnh suy thận|nhịp tim]] là một rối loạn tâm trạng mãn tính, nhẹ hơn, trong đó một người báo cáo tâm trạng thấp gần như hàng ngày trong khoảng thời gian ít nhất hai năm. Các triệu chứng không nghiêm trọng như các triệu chứng trầm cảm nặng, mặc dù những người mắc chứng rối loạn nhịp tim dễ bị các đợt trầm cảm nặng thứ phát (đôi khi được gọi là ''[[trầm cảm kép]]'' ). <ref name="harvnb2">{{Harvard citation no brackets|Sadock|2002}}</ref> [[Rối loạn điều chỉnh|Rối loạn điều chỉnh với tâm trạng chán nản]] là rối loạn tâm trạng xuất hiện như một phản ứng tâm lý đối với một sự kiện hoặc tác nhân gây căng thẳng có thể xác định được, trong đó các triệu chứng cảm xúc hoặc hành vi dẫn đến là đáng kể nhưng không đáp ứng các tiêu chí cho một giai đoạn trầm cảm nặng. <ref name="psychiatric3552">{{Harvard citation no brackets|American Psychiatric Association|2000a}}</ref> [[Rối loạn lưỡng cực]], còn được gọi là ''rối loạn hưng cảm - trầm cảm'', là một tình trạng trong đó các giai đoạn trầm cảm xen kẽ với các giai đoạn [[hưng cảm]] hoặc [[Hypomania|hưng cảm]] . Mặc dù trầm cảm hiện được phân loại là một chứng rối loạn riêng biệt, nhưng vẫn có cuộc tranh luận đang diễn ra vì những người được chẩn đoán mắc chứng trầm cảm nặng thường trải qua một số triệu chứng hưng cảm, cho thấy một rối loạn tâm trạng liên tục. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Akiskal HS, Benazzi F|date=May 2006|title=The DSM-IV and ICD-10 categories of recurrent [major] depressive and bipolar II disorders: evidence that they lie on a dimensional spectrum|journal=Journal of Affective Disorders|volume=92|issue=1|pages=45–54|doi=10.1016/j.jad.2005.12.035|pmid=16488021}}</ref> Các chẩn đoán phân biệt khác liên quan đến [[hội chứng mệt mỏi mãn tính]] . <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Hawk C, Jason LA, Torres-Harding S|date=1 January 2006|title=Differential diagnosis of chronic fatigue syndrome and major depressive disorder|journal=International Journal of Behavioral Medicine|volume=13|issue=3|pages=244–51|citeseerx=10.1.1.574.3376|doi=10.1207/s15327558ijbm1303_8|pmid=17078775}}</ref>
Trầm cảm là nguyên nhân của hơn 50% những trường hợp [[tự sát]]. Theo các thống kê thì tuy nam giới ít bị trầm cảm hơn, nhưng khi rơi vào trầm cảm, xu hướng tự sát lại cao hơn.


Các rối loạn khác cần được loại trừ trước khi chẩn đoán rối loạn trầm cảm nặng. Chúng bao gồm trầm cảm do bệnh tật, [[Dược phẩm|thuốc men]] và [[Lạm dụng chất|lạm dụng chất kích thích]] . Trầm cảm do bệnh lý thể chất được chẩn đoán là [[Rối loạn tâm trạng|rối loạn tâm trạng do tình trạng bệnh lý nói chung]] . Tình trạng này được xác định dựa trên tiền sử, phát hiện trong phòng thí nghiệm hoặc [[khám sức khỏe]] . Khi trầm cảm do dùng thuốc, lạm dụng thuốc hoặc tiếp xúc với [[Toxin|chất độc]], thì bệnh này được chẩn đoán là một chứng rối loạn tâm trạng cụ thể (trước đây được gọi là ''rối loạn tâm trạng do chất gây ra'' trong DSM-IV-TR). <ref name="DSM52">{{Chú thích|isbn=978-0-89042-555-8}}</ref>
Những bệnh nhân trầm cảm tự sát đa số ở hai nhóm chính:
* Nam giới, trên 50 tuổi hoặc có thể còn trẻ hơn như là 15-16 tuổi ở độ tuổi thiếu niên do áp lực thường ngày, sống ở nông thôn.
* Nữ giới, trẻ tuổi, sống ở thành thị.


== Tầm soát/sàng lọc và phòng ngừa ==
Ý đồ tự sát nhiều hơn gấp 10-12 lần so với hành vi tự sát. Nguy cơ cao ở những bệnh nhân mà bản thân hoặc người cùng huyết thống từng tự sát, trầm cảm, [[chứng nghiện rượu|nghiện rượu]], cũng như ở những người sống cô lập với xã hội.
Kể từ năm 2016, [[Lực lượng đặc nhiệm về dịch vụ phòng ngừa của Hoa Kỳ|Lực lượng Đặc nhiệm Dịch vụ Dự phòng Hoa Kỳ]] (USPSTF) đã khuyến nghị tầm soát trầm cảm ở những người trên 12 tuổi; <ref name="US2016">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Siu AL, Bibbins-Domingo K, Grossman DC, Baumann LC, Davidson KW, Ebell M, García FA, Gillman M, Herzstein J, Kemper AR, Krist AH, Kurth AE, Owens DK, Phillips WR, Phipps MG, Pignone MP|date=January 2016|title=Screening for Depression in Adults: US Preventive Services Task Force Recommendation Statement|journal=JAMA|volume=315|issue=4|pages=380–87|doi=10.1001/jama.2015.18392|pmid=26813211|doi-access=free}}</ref> <ref name="US2016Peds">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Siu AL|date=March 2016|title=Screening for Depression in Children and Adolescents: U.S. Preventive Services Task Force Recommendation Statement|journal=Annals of Internal Medicine|volume=164|issue=5|pages=360–66|doi=10.7326/M15-2957|pmid=26858097|doi-access=free}}</ref> một [[Tổng quan Cochrane|tổng quan của Cochrane]] năm 2005 cho thấy việc sử dụng thường quy bảng câu hỏi sàng lọc ít ảnh hưởng đến việc phát hiện hoặc điều trị. <ref name="Gil2005">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Gilbody S, House AO, Sheldon TA|date=October 2005|title=Screening and case finding instruments for depression|journal=The Cochrane Database of Systematic Reviews|issue=4|page=CD002792|doi=10.1002/14651858.CD002792.pub2|pmc=6769050|pmid=16235301}}</ref>


Các nỗ lực phòng ngừa có thể làm giảm tỷ lệ của trầm cảm xuống từ 22 đến 38%. <ref name="Cuijpers2008">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Cuijpers P, van Straten A, Smit F, Mihalopoulos C, Beekman A|date=October 2008|title=Preventing the onset of depressive disorders: a meta-analytic review of psychological interventions|url=http://ajp.psychiatryonline.org/cgi/content/abstract/165/10/1272?maxtoshow=&hits=10&RESULTFORMAT=1&title=Preventing+the+onset+of+depressive+disorders%3A+A+meta&andorexacttitle=and&andorexacttitleabs=and&andorexactfulltext=and&searchid=1&FIRSTINDEX=0&sortspec=relevance&resourcetype=HWCIT|journal=The American Journal of Psychiatry|volume=165|issue=10|pages=1272–80|doi=10.1176/appi.ajp.2008.07091422|pmid=18765483}}</ref> Ăn một lượng lớn cá cũng có thể làm giảm nguy cơ. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Li F, Liu X, Zhang D|date=March 2016|title=Fish consumption and risk of depression: a meta-analysis|journal=Journal of Epidemiology and Community Health|volume=70|issue=3|pages=299–304|doi=10.1136/jech-2015-206278|pmid=26359502}}</ref>
Tự sát có thể đột ngột hay được chuẩn bị trước, âm thầm hoặc báo trước.


Các can thiệp hành vi, chẳng hạn như [[Liệu pháp giữa các cá nhân|liệu pháp giao tiếp giữa các cá nhân]] và [[Liệu pháp hành vi nhận thức|liệu pháp nhận thức-hành vi]], có hiệu quả trong việc ngăn ngừa chứng trầm cảm mới khởi phát. <ref name="Cuijpers20082">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Cuijpers P, van Straten A, Smit F, Mihalopoulos C, Beekman A|date=October 2008|title=Preventing the onset of depressive disorders: a meta-analytic review of psychological interventions|url=http://ajp.psychiatryonline.org/cgi/content/abstract/165/10/1272?maxtoshow=&hits=10&RESULTFORMAT=1&title=Preventing+the+onset+of+depressive+disorders%3A+A+meta&andorexacttitle=and&andorexacttitleabs=and&andorexactfulltext=and&searchid=1&FIRSTINDEX=0&sortspec=relevance&resourcetype=HWCIT|journal=The American Journal of Psychiatry|volume=165|issue=10|pages=1272–80|doi=10.1176/appi.ajp.2008.07091422|pmid=18765483}}</ref> <ref name="Munoz2012">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Muñoz RF, Beardslee WR, Leykin Y|date=May–June 2012|title=Major depression can be prevented|journal=The American Psychologist|volume=67|issue=4|pages=285–95|doi=10.1037/a0027666|pmc=4533896|pmid=22583342}}</ref> <ref name="Cuijpers2012">{{Chú thích hội thảo}}</ref> Bởi vì những biện pháp can thiệp như vậy có vẻ hiệu quả nhất khi được phân phối cho các cá nhân hoặc nhóm nhỏ, người ta gợi ý rằng họ có thể tiếp cận đối tượng mục tiêu lớn của mình một cách hiệu quả nhất thông qua [[Internet]] . <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Griffiths KM, Farrer L, Christensen H|year=2010|title=The efficacy of internet interventions for depression and anxiety disorders: a review of randomised controlled trials|url=https://www.mja.com.au/system/files/issues/192_11_070610/gri10844_fm.pdf|journal=Medical Journal of Australia|volume=192|issue=11|pages=4–11|doi=10.5694/j.1326-5377.2010.tb03685.x|pmid=20528707|archive-url=https://web.archive.org/web/20141112130932/https://www.mja.com.au/system/files/issues/192_11_070610/gri10844_fm.pdf|archive-date=12 November 2014|access-date=12 November 2014}}</ref>
== Phân biệt ==
Các nguyên nhân gây trầm cảm có thể xếp vào 3 nhóm chính:<ref name="thaythuoc"/>
# Trầm cảm nội sinh (còn gọi là trầm cảm chưa rõ nguyên nhân): Có nhiều giả thuyết cho là do di truyền, miễn dịch, môi trường sống và yếu tố xã hội,... nhưng chưa có giả thuyết nào có tính thuyết phục.
# Trầm cảm do căng thẳng: Do áp lực cuộc sống, hoặc do những điều bất thường xảy ra, chẳng hạn như khi mất việc làm, mâu thuẫn trong gia đình, con cái hư hỏng, bị trù dập ở nơi làm việc, làm ăn thua lỗ, bị phá sản hoặc có người thân chết đột ngột,...
# Trầm cảm do các bệnh thực tổn:
## Các rối loạn nội tiết:
##* Giảm năng tuyến giáp (hypothyroidism)
##* [[Tiểu đường|Bệnh tiểu đường]]
##* [[Hội chứng Cushing]]
## Các rối loạn thần kinh:
##* Các tai biến mạch máu não
##* Khối máu tụ dưới màng cứng (subdural hematoma)
##* Bệnh xơ cứng rải rác (multiple sclerosis)
##* U não
##* Bệnh [[bệnh Parkinson|parkinson]]
##* Bệnh co giật
##* [[Suy giảm trí nhớ|Sa sút trí tuệ]] (dementia)


Tuy nhiên, một phân tích tổng hợp trước đó cho thấy các chương trình phòng ngừa với thành phần nâng cao năng lực vượt trội hơn so với các chương trình định hướng hành vi về tổng thể và nhận thấy các chương trình hành vi đặc biệt không hữu ích cho người lớn tuổi, những người mà các chương trình hỗ trợ xã hội chỉ mang lại lợi ích cho họ. Ngoài ra, các chương trình ngăn ngừa trầm cảm tốt nhất bao gồm hơn tám phiên, mỗi phiên kéo dài từ 60 đến 90 phút, được cung cấp bởi sự kết hợp của những người lao động chuyên nghiệp và giáo dân, có thiết kế nghiên cứu chất lượng cao, [[Tỷ lệ churn|tỷ lệ hao mòn]] được báo cáo và có - can thiệp xác định. <ref>{{Chú thích web|url=http://bjp.rcpsych.org/cgi/reprint/183/5/384.pdf|tựa đề=Predictors of efficacy in depression prevention programmes|năm=2003|website=British Journal of Psychiatry|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20090326083702/http://bjp.rcpsych.org/cgi/reprint/183/5/384.pdf|ngày lưu trữ=26 March 2009|ngày truy cập=2 April 2009}}</ref>
Bệnh trầm cảm được xếp loại thành nguyên phát nếu như các triệu chứng xuất hiện trước và không liên hệ với bất cứ một bệnh nội khoa hoặc tâm thần có ý nghĩa nào khác. Được coi là thứ phát khi bệnh trầm cảm xảy ra sau và có liên hệ với một bệnh nội khoa hoặc tâm thần khác.


Hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần của Hà Lan cung cấp các biện pháp can thiệp phòng ngừa, chẳng hạn như khóa học "Đối phó với trầm cảm" (CWD) cho những người bị trầm cảm dưới ngưỡng. Khóa học được cho là thành công nhất của các can thiệp tâm lý để điều trị và phòng ngừa trầm cảm (cả về khả năng thích ứng với các quần thể khác nhau và kết quả của nó), với việc giảm 38% nguy cơ mắc bệnh trầm cảm nặng và hiệu quả như một phương pháp điều trị so sánh thuận lợi đến các liệu pháp tâm lý khác. <ref name="Munoz20122">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Muñoz RF, Beardslee WR, Leykin Y|date=May–June 2012|title=Major depression can be prevented|journal=The American Psychologist|volume=67|issue=4|pages=285–95|doi=10.1037/a0027666|pmc=4533896|pmid=22583342}}</ref> <ref name="Cuijpers2009">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Cuijpers P, Muñoz RF, Clarke GN, Lewinsohn PM|date=July 2009|title=Psychoeducational treatment and prevention of depression: the "Coping with Depression" course thirty years later|journal=Clinical Psychology Review|volume=29|issue=5|pages=449–58|doi=10.1016/j.cpr.2009.04.005|pmid=19450912}}</ref>
== Điều trị ==
{{bài thuốc}}
Liệu pháp thuốc, Liệu pháp tâm lý hỗ trợ [[Psilocybin]]<ref>{{Chú thích web|url=https://compasspathways.com/compass-pathways-receives-fda-breakthrough-therapy-designation-for-psilocybin-therapy-for-treatment-resistant-depression/|title=COMPASS Pathways Receives FDA Breakthrough Therapy Designation for Psilocybin Therapy for Treatment-resistant Depression|last=|first=|date=|website=|archive-url=|archive-date=|dead-url=|accessdate =}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://www.nature.com/articles/s41598-017-13282-7|title=Psilocybin for treatment-resistant depression|last=|first=|date=|website=|archive-url=|archive-date=|dead-url=|accessdate =}}</ref> vật lý trị liệu (xoa bóp, châm cứu,...) và nếu được điều trị tâm lý thì càng tốt.


== Xem thêm ==
== Xem thêm ==

Phiên bản lúc 01:11, ngày 27 tháng 1 năm 2021

Bức họa một người bệnh trầm cảm của Vincent van Gogh, một họa sĩ cũng mắc chứng này.

Rối loạn trầm cảm (MDD, Major Depressive Disorder) hay trầm cảm là một chứng rối loạn tâm thần phổ biến. Các triệu chứng của căn bệnh bao gồm: tâm trạng buồn bã kéo dài ít nhất 2 tuần liên tiếp, lòng tự trọng thấp, mất hứng thú với các hoạt động bệnh nhân từng cảm thấy thú vị, hay các hoạt động bình thường cũng dần trở nên khó khăn với bệnh nhân, cảm thấy uể oải thiếu năng lượng, đau nhưng không rõ nguyên nhân. [1] Có thể thỉnh thoảng những người mắc bệnh trầm cảm còn ảo tưởng hoặc gặp ảo giác.[1] Các triệu chứng của căn bệnh có thể cách vài năm mới gặp, hoặc gần như luôn xuất hiện. [2] Trầm cảm nặng thì nỗi buồn sẽ kéo dài hơn, và những việc vốn là một phần bình thường của cuộc sống bỗng trở nên khó khăn hơn. Ngoài ra khi mắc bệnh, cảm xúc của bệnh nhân sẽ trở nên bất thường. [2][3]

Việc chẩn đoán rối loạn trầm cảm chủ yếu dựa trên kinh nghiệm được bệnh nhân tự báo cáo và kiểm tra tình trạng tâm thần.[4] Không có xét nghiệm trong phòng thí nghiệm cho chứng rối loạn này,[2] nhưng có thể thực hiện xét nghiệm để loại trừ các tình trạng thể chất có thể gây ra các triệu chứng tương tự.[4] Những người bị rối loạn trầm cảm nặng thường được điều trị bằng tư vấndùng thuốc chống trầm cảm.[1] Thuốc dường như có hiệu quả, nhưng hiệu quả có thể chỉ đáng kể ở người bị trầm cảm nặng nhất.[5][6] Các hình thức tư vấn được sử dụng bao gồm liệu pháp hành vi nhận thức (CBT) và liệu pháp giao tiếp giữa các cá nhân,[1][7]liệu pháp điện giật (ECT) có thể được xem xét nếu các biện pháp khác không hiệu quả.[1] Có thể cần nhập viện trong những trường hợp có nguy cơ gây hại cho bản thân và đôi khi có thể xảy ra trái với mong muốn của một người.[8]

Thời gian khởi phát chứng trầm cảm phổ biến nhất là ở độ tuổi 20 và 30,[2][9] với nữ giới bị trầm cảm thường xuyên gấp đôi so với nam giới.[2][9] Rối loạn trầm cảm nặng ảnh hưởng đến khoảng 163 triệu người (2% dân số thế giới) vào năm 2017.[10] Tỷ lệ những người bị trầm cảm tại một thời điểm trong cuộc đời của họ thay đổi từ 7% ở Nhật Bản đến 21% ở Pháp.[9] Tỷ lệ sống lâu hơn với chứng này ở các nước phát triển (15%) cao hơn so với các nước đang phát triển (11%).[9] Chứng rối loạn này gây ra tình trạng bệnh kéo dài nhiều năm thứ hai, chỉ sau đau thắt lưng.[11]

Thuật ngữ major depressive disorder (rối loạn trầm cảm chính) được đưa ra bởi một nhóm bác sĩ lâm sàng Hoa Kỳ vào giữa những năm 1970.[12] Nguyên nhân của rối loạn trầm cảm chủ yếu được cho là sự kết hợp của các yếu tố di truyền, môi trường và tâm lý,[1] với khoảng 40% nguy cơ liên quan đến di truyền.[2] Các yếu tố nguy cơ bao gồm tiền sử gia đình về tình trạng này, những thay đổi lớn trong cuộc sống, một số loại thuốc, các vấn đề sức khỏe mãn tínhlạm dụng chất kích thích.[1][2] Nó có thể ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống cá nhân, cuộc sống công việc hoặc giáo dục cũng như thói quen ngủ, ăn uống và sức khỏe nói chung.[1][2] Những người hiện tại hoặc trước đây bị ảnh hưởng bởi chứng rối loạn này có thể bị kỳ thị.[13]

Nguyên nhân

Một phép tương tự chiếc cốc thể hiện mô hình căng thẳng rằng dưới cùng một lượng tác nhân gây căng thẳng, người 2 dễ bị tổn thương hơn người 1, do khuynh hướng của họ. [14]

Mô hình tâm lý xã hội sinh học đề xuất rằng các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội đều có vai trò gây ra trầm cảm. [15] [16] Các mô hình tạng stress quy định cụ thể mà kết quả trầm cảm khi một lỗ hổng tồn tại trước đó, hoặc tạng, được kích hoạt bởi các sự kiện cuộc sống căng thẳng. Tính dễ bị tổn thương tồn tại từ trước có thể là do di truyền, [17] [18] ngụ ý sự tương tác giữa tự nhiên và nuôi dưỡng, hoặc sơ đồ, kết quả từ quan điểm về thế giới được học trong thời thơ ấu. [19]

Lạm dụng thời thơ ấu, cả về thể chất, tình dục hoặc tâm lý, đều là các yếu tố nguy cơ dẫn đến trầm cảm, trong số các vấn đề tâm thần khác cùng xảy ra như lo lắng và lạm dụng ma túy . Chấn thương thời thơ ấu cũng tương quan với mức độ trầm cảm, thiếu phản ứng với điều trị và thời gian mắc bệnh. Tuy nhiên, một số người dễ mắc bệnh tâm thần hơn như trầm cảm sau chấn thương, và nhiều gen khác nhau đã được đề xuất để kiểm soát tính nhạy cảm. [20]

Di truyền

Các nghiên cứu về gia đình và sinh đôi cho thấy gần 40% sự khác biệt giữa các cá nhân về nguy cơ mắc chứng rối loạn trầm cảm nặng có thể được giải thích bởi các yếu tố di truyền . [21] Giống như hầu hết các rối loạn tâm thần, rối loạn trầm cảm chính có khả năng bị ảnh hưởng bởi nhiều thay đổi di truyền cá nhân. Vào năm 2018, một nghiên cứu liên kết toàn bộ bộ gen đã phát hiện ra 44 biến thể trong bộ gen có liên quan đến nguy cơ trầm cảm nặng. [22] Tiếp theo là một nghiên cứu năm 2019 đã tìm thấy 102 biến thể trong bộ gen có liên quan đến chứng trầm cảm. [23]

5-HTTLPR, hoặc alen ngắn của serotonin vận chuyển gen khởi động đã gắn liền với tăng nguy cơ trầm cảm. Tuy nhiên, kể từ những năm 1990, các kết quả không nhất quán, với ba đánh giá gần đây cho thấy có thấy và hai đánh giá không tìm thấy. [24] [25] [26] [27] [28] Các gen khác có liên quan đến tương tác gen-môi trường bao gồm CRHR1, FKBP5BDNF, hai gen đầu tiên liên quan đến phản ứng căng thẳng của trục HPA và gen sau liên quan đến hình thành thần kinh . Không có kết luận nào về tác động của gen ứng cử viên đối với bệnh trầm cảm, dù đơn lẻ hay kết hợp với căng thẳng trong cuộc sống. [29] Nghiên cứu tập trung vào các gen ứng viên cụ thể đã bị chỉ trích vì có xu hướng tạo ra các phát hiện dương tính giả. [30] Ngoài ra còn có những nỗ lực khác để xem xét sự tương tác giữa căng thẳng trong cuộc sống và nguy cơ mắc bệnh trầm cảm. [31]

Các vấn đề sức khỏe khác

Trầm cảm cũng có thể là sản phẩm thứ phát sau một tình trạng bệnh mãn tính hoặc giai đoạn cuối, chẳng hạn như HIV / AIDS hoặc hen suyễn, và có thể được gọi là "trầm cảm thứ phát". [32] [33] Người ta vẫn chưa biết liệu các bệnh tiềm ẩn gây ra trầm cảm có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống hay không, do nguyên nhân chung (chẳng hạn như thoái hóa hạch nền trong bệnh Parkinson hoặc rối loạn điều hòa miễn dịch trong bệnh hen suyễn ). [34] Trầm cảm cũng có thể là do thuốc (kết quả của việc chăm sóc sức khỏe), chẳng hạn như trầm cảm do thuốc. Các liệu pháp liên quan đến chứng trầm cảm bao gồm interferon, thuốc chẹn beta, isotretinoin, thuốc tránh thai, [35] thuốc trợ tim, thuốc chống co giật, thuốc antimigraine, thuốc chống loạn thầncác thuốc nội tiết tố như chất chủ vận hormone giải phóng gonadotropin . [36] Lạm dụng ma túy khi còn nhỏ cũng có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm sau này trong cuộc sống. [37] Trầm cảm xảy ra do mang thai được gọi là trầm cảm sau sinh, và được cho là kết quả của những thay đổi nội tiết tố liên quan đến thai kỳ . [38] Rối loạn cảm xúc theo mùa, một dạng trầm cảm liên quan đến sự thay đổi ánh sáng mặt trời theo mùa, được cho là kết quả của việc giảm ánh sáng mặt trời. [39]

Sinh lý bệnh

Sinh lý bệnh của trầm cảm vẫn chưa được hiểu rõ, nhưng các lý thuyết hiện tại xoay quanh hệ thống monoaminergic, nhịp sinh học, rối loạn chức năng miễn dịch, rối loạn chức năng trục HPA và các bất thường về cấu trúc hoặc chức năng của mạch cảm xúc.

Lý thuyết monoamine, bắt nguồn từ hiệu quả của các loại thuốc monoaminergic trong điều trị trầm cảm, là lý thuyết thống trị cho đến gần đây  ] . Lý thuyết cho rằng hoạt động không đủ của chất dẫn truyền thần kinh monoamine là nguyên nhân chính gây ra trầm cảm. Bằng chứng cho lý thuyết monoamine đến từ nhiều lĩnh vực. Thứ nhất, sự suy giảm cấp tính tryptophan, một tiền chất cần thiết của serotonin, một monoamine, có thể gây trầm cảm ở những người đang thuyên giảm hoặc người thân của bệnh nhân trầm cảm; điều này cho thấy rằng giảm dẫn truyền thần kinh serotonergic là quan trọng trong bệnh trầm cảm. [40] Thứ hai, mối tương quan giữa nguy cơ trầm cảm và tính đa hình trong gen 5-HTTLPR, mã hóa các thụ thể serotonin, cho thấy một mối liên hệ. Thứ ba, giảm kích thước của locus coeruleus, giảm hoạt động của tyrosine hydroxylase, tăng mật độ thụ thể adrenergic alpha-2, và bằng chứng từ mô hình chuột cho thấy giảm dẫn truyền thần kinh adrenergic trong bệnh trầm cảm. [41] Hơn nữa, giảm nồng độ axit homovanillic, thay đổi phản ứng với dextroamphetamine, phản ứng của các triệu chứng trầm cảm với chất chủ vận thụ thể dopamine, giảm liên kết thụ thể dopamine D1 trong thể vân, [42]tính đa hình của gen thụ thể dopamine liên quan đến dopamine, một monoamine khác, trong bệnh trầm cảm. [43] [44] Cuối cùng, sự gia tăng hoạt động của monoamine oxidase, chất phân hủy monoamine, có liên quan đến chứng trầm cảm. [45] Tuy nhiên, lý thuyết này không phù hợp với thực tế rằng sự suy giảm serotonin không gây ra trầm cảm ở người khỏe mạnh, thực tế là thuốc chống trầm cảm làm tăng mức độ monoamines ngay lập tức nhưng phải mất vài tuần để phát huy tác dụng và sự tồn tại của thuốc chống trầm cảm không điển hình có thể có hiệu quả mặc dù không nhắm vào con đường này. . [46] Một lời giải thích được đề xuất cho sự chậm trễ trong điều trị, và hỗ trợ thêm cho sự thiếu hụt các monoamine, là giải mẫn cảm của sự tự ức chế trong nhân raphe bằng cách tăng serotonin qua trung gian của thuốc chống trầm cảm. [47] Tuy nhiên, việc ức chế raphe lưng đã được đề xuất xảy ra do làm giảm hoạt động của hệ serotonergic trong sự suy giảm tryptophan, dẫn đến trạng thái trầm cảm do tăng serotonin. Tiếp tục phản bác giả thuyết monoamine là thực tế rằng những con chuột bị tổn thương raphe lưng không trầm cảm hơn so với đối chứng, phát hiện thấy tăng 5-HIAA ở những bệnh nhân trầm cảm bình thường với điều trị SSRI và sự ưa thích đối với carbohydrate ở những bệnh nhân trầm cảm. [48] Vốn đã bị hạn chế, giả thuyết về monoamine đã được đơn giản hóa hơn nữa khi được trình bày với công chúng. [49]

Các bất thường về hệ thống miễn dịch đã được quan sát thấy, bao gồm cả mức độ tăng của các cytokine liên quan đến việc tạo ra các hành vi bệnh tật (trùng lặp với trầm cảm). [50] [51] [52] Hiệu quả của thuốc chống viêm không steroid (NSAID) và chất ức chế cytokine trong điều trị trầm cảm, [53] và bình thường hóa nồng độ cytokine sau khi điều trị thành công cho thấy thêm những bất thường của hệ thống miễn dịch trong bệnh trầm cảm. [54]

Các bất thường về trục HPA đã được gợi ý ở bệnh trầm cảm do mối liên quan của CRHR1 với bệnh trầm cảm và tần suất không ức chế thử nghiệm dexamethasone tăng lên ở bệnh nhân trầm cảm. Tuy nhiên, sự bất thường này không đủ để làm công cụ chẩn đoán vì độ nhạy của nó chỉ là 44%. [55] [56] Những bất thường liên quan đến căng thẳng này đã được giả thuyết là nguyên nhân của việc giảm thể tích hồi hải mã ở những bệnh nhân trầm cảm. [57] Hơn nữa, một phân tích tổng hợp mang lại hiệu quả giảm ức chế dexamethasone và tăng phản ứng với các tác nhân gây căng thẳng tâm lý. [58] Các kết quả bất thường hơn nữa đã bị che khuất với phản ứng thức tỉnh cortisol, với việc tăng phản ứng có liên quan đến trầm cảm. [59]

Các lý thuyết thống nhất các phát hiện về hình ảnh thần kinh đã được đề xuất. Mô hình đầu tiên được đề xuất là "Mô hình vỏ não Limbic", liên quan đến sự tăng động của các vùng cạnh bụng và sự giảm hoạt động của các vùng điều hòa phía trước trong quá trình xử lý cảm xúc. [60] Một mô hình khác, "mô hình Corito-Striatal", gợi ý rằng những bất thường của vỏ não trước trong việc điều chỉnh cấu trúc thể vân và dưới vỏ dẫn đến trầm cảm. [61] Một mô hình khác đề xuất sự tăng động của các cấu trúc khả năng trong việc xác định các kích thích tiêu cực và sự giảm hoạt động của các cấu trúc điều tiết vỏ não dẫn đến sự thiên vị cảm xúc tiêu cực và trầm cảm, phù hợp với các nghiên cứu về sự thiên vị cảm xúc. [62]

Các triệu chứng và dấu hiệu

Một bức ảnh in thạch bản năm 1892 của một phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh trầm cảm

Trầm cảm nặng ảnh hưởng đáng kể đến các mối quan hệ gia đình và cá nhân, cuộc sống công việc hoặc trường học, thói quen ăn ngủ và sức khỏe nói chung của một người. [63] Tác động của nó đối với hoạt động và hạnh phúc đã được so sánh với tác động của các bệnh mãn tính khác, chẳng hạn như bệnh tiểu đường . [64]

Một người trải qua giai đoạn trầm cảm nghiêm trọng thường biểu hiện tâm trạng thấp thỏm, trải qua mọi khía cạnh của cuộc sống và không có khả năng trải nghiệm niềm vui trong các hoạt động thú vị trước đây. Những người trầm cảm có thể bận tâm - hoặc suy ngẫm về - những suy nghĩ và cảm giác vô dụng, tội lỗi hoặc hối tiếc không phù hợp, bất lực hoặc tuyệt vọng. [65] Trong trường hợp nghiêm trọng, người trầm cảm có thể có các triệu chứng rối loạn tâm thần . Những triệu chứng này bao gồm ảo tưởng hoặc ít phổ biến hơn là ảo giác, thường khó chịu. [66] Các triệu chứng khác của trầm cảm bao gồm khả năng tập trung và trí nhớ kém (đặc biệt ở những người có biểu hiện u uất hoặc rối loạn tâm thần), [67] rút lui khỏi các tình huống và hoạt động xã hội, giảm ham muốn tình dục, cáu kỉnh, [68] và nghĩ đến cái chết hoặc tự tử. Mất ngủ là phổ biến ở những người trầm cảm. Trong mô hình điển hình, một người thức dậy rất sớm và không thể ngủ lại được. [69] Tình trạng mất ngủ hoặc ngủ quá nhieeuf cũng có thể xảy ra. [69] Một số thuốc chống trầm cảm cũng có thể gây mất ngủ do tác dụng kích thích của chúng. [70]

Một người trầm cảm có thể báo cáo nhiều triệu chứng về thể chất như mệt mỏi, đau đầu hoặc các vấn đề về tiêu hóa; Theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới về trầm cảm, phàn nàn về thể chất là vấn đề phổ biến nhất ở các nước đang phát triển. [71] Cảm giác thèm ăn thường giảm, dẫn đến giảm cân, mặc dù đôi khi xảy ra hiện tượng thèm ăn và tăng cân. [72] Gia đình và bạn bè có thể nhận thấy rằng hành vi của người đó là kích động hoặc hôn mê . [73] Những người lớn tuổi bị trầm cảm có thể có các triệu chứng nhận thức khi mới khởi phát, chẳng hạn như hay quên, [74] và cử động chậm lại đáng chú ý hơn. [75]

Trẻ trầm cảm thường có thể biểu hiện tâm trạng cáu kỉnh hơn là trầm cảm [76] và có các triệu chứng khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi và tình huống. [77] Hầu hết mất hứng thú đến trường và có biểu hiện sa sút trong học tập. Họ có thể được mô tả là đeo bám, đòi hỏi, phụ thuộc hoặc không an toàn. [78] Việc chẩn đoán có thể bị trì hoãn hoặc bỏ sót khi các triệu chứng được hiểu là "tâm trạng ủ rũ bình thường". [76]

Các bệnh liên quan

Chứng trầm cảm nặng thường xảy ra cùng với các vấn đề tâm thần khác. Khảo sát Bệnh tật Quốc gia 1990–92 (Hoa Kỳ) báo cáo rằng một nửa số người bị trầm cảm nặng cũng bị lo âu suốt đời và các rối loạn liên quan như rối loạn lo âu tổng quát . [79] Các triệu chứng lo âu có thể có tác động lớn đến tiến trình của bệnh trầm cảm, với việc chậm phục hồi, tăng nguy cơ tái phát, tàn tật nhiều hơn và tăng các nỗ lực tự sát. [80] Ngày càng có nhiều tỷ lệ lạm dụng rượu và ma túy và đặc biệt là sự phụ thuộc, [81] [82] và khoảng một phần ba số người được chẩn đoán mắc ADHD bị trầm cảm kèm theo. [83] Rối loạn căng thẳng sau chấn thương và trầm cảm thường đồng thời xảy ra. [84] Trầm cảm cũng có thể cùng tồn tại với rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD), làm phức tạp việc chẩn đoán và điều trị cả hai. [85] Trầm cảm cũng thường đi kèm với lạm dụng rượurối loạn nhân cách . [86] Bệnh trầm cảm cũng có thể trở nên trầm trọng hơn trong những tháng cụ thể (thường là mùa đông) đối với những người mắc chứng rối loạn cảm xúc theo mùa . Mặc dù lạm dụng quá nhiều phương tiện kỹ thuật số có liên quan đến các triệu chứng trầm cảm, nhưng phương tiện kỹ thuật số cũng có thể được sử dụng trong một số trường hợp để cải thiện tâm trạng. [87] [88]

Trầm cảm và đau đớn thường đồng thời xảy ra. Một hoặc nhiều triệu chứng đau xuất hiện ở 65% bệnh nhân trầm cảm, và từ 5 đến 85% bệnh nhân bị đau sẽ bị trầm cảm, tùy thuộc vào hoàn cảnh; tỷ lệ mắc bệnh ở phòng khám đa khoa thấp hơn và ở phòng khám chuyên khoa cao hơn. Việc chẩn đoán bệnh trầm cảm thường bị trì hoãn hoặc bỏ sót, và kết quả có thể xấu đi nếu bệnh trầm cảm được chú ý nhưng hoàn toàn bị hiểu nhầm. [89]

Trầm cảm cũng có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh tim mạch tăng gấp 1,5 đến 2 lần, không phụ thuộc vào các yếu tố nguy cơ đã biết khác và bản thân nó có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với các yếu tố nguy cơ như hút thuốc và béo phì. Những người bị trầm cảm nặng ít có khả năng tuân theo các khuyến nghị y tế để điều trị và ngăn ngừa các rối loạn tim mạch, điều này càng làm tăng nguy cơ mắc các biến chứng y khoa. [90] Ngoài ra, bác sĩ tim mạch có thể không nhận ra chứng trầm cảm tiềm ẩn làm phức tạp vấn đề tim mạch mà họ đang chăm sóc. [91]

Trầm cảm thường cùng tồn tại với các rối loạn thể chất phổ biến ở người cao tuổi, chẳng hạn như đột quỵ, các bệnh tim mạch khác, bệnh Parkinsonbệnh phổi tắc nghẽn mãn tính . [92]

Chẩn đoán

Đánh giá lâm sàng

Đánh giá chẩn đoán có thể được thực hiện bởi một bác sĩ đa khoa được đào tạo phù hợp, hoặc bởi bác sĩ tâm thần hoặc nhà tâm lý học, [93] người ghi lại hoàn cảnh hiện tại, tiền sử tiểu sử, các triệu chứng hiện tại, tiền sử gia đình và việc sử dụng rượu và ma túy của người đó. Đánh giá cũng bao gồm kiểm tra trạng thái tinh thần, là đánh giá về tâm trạng và nội dung suy nghĩ hiện tại của người đó, đặc biệt là sự hiện diện của các chủ đề về sự tuyệt vọng hoặc bi quan, tự làm hại hoặc tự tử và không có suy nghĩ hoặc kế hoạch tích cực. [93] Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần chuyên khoa rất hiếm ở các vùng nông thôn, do đó việc chẩn đoán và quản lý phần lớn được giao cho các bác sĩ lâm sàng chăm sóc ban đầu . [94] Vấn đề này thậm chí còn được đánh dấu nhiều hơn ở các nước đang phát triển. [95] Thang đánh giá không được sử dụng để chẩn đoán trầm cảm, nhưng chúng cung cấp dấu hiệu về mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng trong một khoảng thời gian, do đó, một người đạt điểm trên ngưỡng giới hạn nhất định có thể được đánh giá kỹ lưỡng hơn để chẩn đoán rối loạn trầm cảm. Một số thang đánh giá được sử dụng cho mục đích này; [96] chúng bao gồm Thang đánh giá Hamilton về Bệnh trầm cảm, [97] Bản kiểm kê về bệnh trầm cảm Beck [98] hoặc Bản câu hỏi về hành vi tự tử đã được sửa đổi . [99][100]

Các bác sĩ chăm sóc chính và các bác sĩ không phải bác sĩ tâm thần khác gặp khó khăn hơn trong việc nhận thức kém và điều trị trầm cảm so với bác sĩ tâm thần, một phần do các triệu chứng thể chất thường đi kèm với trầm cảm, ngoài ra còn có nhiều rào cản về bệnh nhân, nhà cung cấp và hệ thống tiềm năng. Một đánh giá cho thấy rằng các bác sĩ không chuyên khoa tâm thần bỏ sót khoảng 2/3 số trường hợp, mặc dù điều này đã được cải thiện phần nào trong các nghiên cứu gần đây. [101]

Trước khi chẩn đoán rối loạn trầm cảm nặng, bác sĩ thường tiến hành kiểm tra y tế và các cuộc điều tra được lựa chọn để loại trừ các nguyên nhân khác gây ra các triệu chứng. Chúng bao gồm các xét nghiệm máu đo TSHthyroxine để loại trừ suy giáp ; chất điện giải cơ bảncanxi huyết thanh để loại trừ rối loạn chuyển hóa ; và công thức máu đầy đủ bao gồm ESR để loại trừ nhiễm trùng toàn thân hoặc bệnh mãn tính. [102] Các phản ứng có hại đối với thuốc hoặc lạm dụng rượu cũng thường được loại trừ. Nồng độ testosterone có thể được đánh giá để chẩn đoán thiểu năng sinh dục, một nguyên nhân gây trầm cảm ở nam giới. [103] Mức độ vitamin D có thể được đánh giá, vì mức độ vitamin D thấp có liên quan đến nguy cơ trầm cảm cao hơn. [104]

Những phàn nàn về nhận thức chủ quan xuất hiện ở những người già bị trầm cảm, nhưng chúng cũng có thể là dấu hiệu của sự khởi đầu của rối loạn sa sút trí tuệ, chẳng hạn như bệnh Alzheimer . [105] [106] Kiểm tra nhận thức và chụp ảnh não có thể giúp phân biệt trầm cảm với sa sút trí tuệ. [107] Chụp CT có thể loại trừ bệnh lý não ở những người có triệu chứng loạn thần, khởi phát nhanh hoặc bất thường. [108] Không có xét nghiệm sinh học nào xác nhận trầm cảm nặng. [109] Nói chung, các cuộc điều tra không được lặp lại cho một đợt tiếp theo trừ khi có chỉ định y tế.

Tiêu chí DSM và ICD

Các tiêu chí được sử dụng rộng rãi nhất để chẩn đoán các tình trạng trầm cảm được tìm thấy trong Sổ tay Thống kê và Chẩn đoán về Rối loạn Tâm thần của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ Phân loại Thống kê Quốc tế về Bệnh tật và Các Vấn đề Sức khỏe Liên quan của Tổ chức Y tế Thế giới trong đó sử dụng tên giai đoạn trầm cảm cho một rối loạn trầm cảm từng đợt và tái phát nhiều đợt. [110] Hệ thống thứ hai thường được sử dụng ở các nước Châu Âu, trong khi hệ thống thứ nhất được sử dụng ở Hoa Kỳ và nhiều quốc gia không thuộc Châu Âu khác, [111] và các tác giả của cả hai đã làm việc để phù hợp với hệ thống kia. [112]

Cả DSM-5 và ICD-10 đều đánh dấu các triệu chứng trầm cảm điển hình (chính). [113] ICD-10 định nghĩa ba triệu chứng trầm cảm điển hình (chán nản tâm trạng, anhedonia, và giảm năng lượng), hai trong số đó nên có mặt để xác định chẩn đoán rối loạn trầm cảm. [114] [115] Theo DSM-5, có hai triệu chứng trầm cảm chính - tâm trạng chán nản và mất hứng thú / niềm vui trong các hoạt động (anhedonia). Những triệu chứng này, cũng như năm trong số chín triệu chứng cụ thể hơn được liệt kê, phải thường xuyên xảy ra trong hơn hai tuần (đến mức độ nó làm suy yếu chức năng) để chẩn đoán. [116]

Rối loạn trầm cảm nặng được phân loại là rối loạn tâm trạng trong DSM-5. [117] Chẩn đoán xoay quanh sự hiện diện của các giai đoạn trầm cảm chính đơn lẻ hoặc tái phát. [118] Các vòng loại hơn nữa được sử dụng để phân loại cả chính tập và diễn biến của rối loạn. Danh mục Rối loạn trầm cảm không xác định được chẩn đoán nếu biểu hiện của giai đoạn trầm cảm không đáp ứng các tiêu chí cho giai đoạn trầm cảm nặng. [117] Hệ thống ICD-10 không sử dụng thuật ngữ rối loạn trầm cảm nặng nhưng liệt kê các tiêu chí rất giống nhau để chẩn đoán một giai đoạn trầm cảm (nhẹ, vừa hoặc nặng); thuật ngữ tái phát có thể được thêm vào nếu đã có nhiều đợt trầm cảm mà không có hưng cảm . [119]

Giai đoạn trầm cảm chính

Biếm họa về một người đàn ông bị trầm cảm

Một giai đoạn trầm cảm chính được đặc trưng bởi sự hiện diện của tâm trạng chán nản nghiêm trọng, kéo dài ít nhất hai tuần. [120] Các tập có thể bị cô lập hoặc tái phát và được phân loại là nhẹ (ít triệu chứng vượt quá tiêu chí tối thiểu), trung bình hoặc nặng (ảnh hưởng rõ rệt đến hoạt động xã hội hoặc nghề nghiệp). Một giai đoạn có các biểu hiện loạn thần — thường được gọi là trầm cảm loạn thần — được tự động xếp hạng là nghiêm trọng. [121] Nếu bệnh nhân đã có một giai đoạn hưng cảm hoặc tâm trạng tăng cao rõ rệt, thì chẩn đoán rối loạn lưỡng cực sẽ được thực hiện thay thế. Trầm cảm không có hưng cảm đôi khi được gọi là đơn cực vì tâm trạng vẫn ở một trạng thái cảm xúc hoặc "một cực cảm xúc". [122]

DSM-IV-TR loại trừ các trường hợp các triệu chứng là kết quả của việc mất đi, mặc dù người mất bình thường có thể tiến triển thành giai đoạn trầm cảm nếu tâm trạng vẫn tiếp diễn và các đặc điểm đặc trưng của giai đoạn trầm cảm nặng phát triển. [123] Các tiêu chí đã bị chỉ trích vì chúng không tính đến bất kỳ khía cạnh nào khác của bối cảnh cá nhân và xã hội mà ở đó bệnh trầm cảm có thể xảy ra. [124] Ngoài ra, một số nghiên cứu đã tìm thấy ít hỗ trợ thực nghiệm cho các tiêu chí cắt DSM-IV, cho thấy chúng là một quy ước chẩn đoán áp dụng cho một loạt các triệu chứng trầm cảm với mức độ nghiêm trọng và thời gian khác nhau. [125] Mất mạng không còn là một tiêu chí loại trừ trong DSM-5, và giờ đây, bác sĩ lâm sàng phải phân biệt giữa phản ứng bình thường với mất mát và MDD. Loại trừ là một loạt các chẩn đoán liên quan, bao gồm chứng rối loạn nhịp tim, liên quan đến rối loạn tâm trạng mãn tính nhưng nhẹ hơn; [126] trầm cảm ngắn hạn tái phát, bao gồm các giai đoạn trầm cảm ngắn gọn; [127] [128] Rối loạn trầm cảm nhẹ, theo đó chỉ có một số triệu chứng của trầm cảm nặng; [129]rối loạn điều chỉnh với tâm trạng chán nản, biểu thị tâm trạng thấp do phản ứng tâm lý trước một sự kiện hoặc tác nhân gây căng thẳng có thể xác định được. [130] Ba rối loạn trầm cảm mới đã được thêm vào DSM-5: rối loạn điều hòa tâm trạng rối loạn, được phân loại theo sự cáu kỉnh đáng kể ở thời thơ ấu, [131] rối loạn trầm cảm tiền kinh nguyệt (PMDD), gây ra các giai đoạn lo lắng, trầm cảm hoặc cáu kỉnh trong một hoặc hai tuần trước đó kinh nguyệt của phụ nữ, [132]rối loạn trầm cảm dai dẳng . [133]

Các phân loại nhỏ hơn

DSM-5 đưa ra sáu loại phụ khác của trầm cảm, được gọi là các xác định, ngoài việc ghi nhận độ dài, mức độ nghiêm trọng và sự hiện diện của các đặc điểm rối loạn tâm thần:

  • " Trầm cảm u sầu " được đặc trưng bởi mất niềm vui trong hầu hết hoặc tất cả các hoạt động, không phản ứng với các kích thích thú vị, chất lượng tâm trạng chán nản rõ ràng hơn so với đau buồn hoặc mất mát, các triệu chứng tồi tệ hơn vào buổi sáng, sớm- thức dậy vào buổi sáng, chậm phát triển tâm thần vận động, sụt cân quá mức (không nên nhầm lẫn với chứng chán ăn tâm thần ), hoặc mặc cảm quá mức.[134]]
  • " Trầm cảm không điển hình " được đặc trưng bởi phản ứng tâm trạng (chứng rối loạn trương lực cơ nghịch lý) và tích cực, tăng cân đáng kể hoặc tăng cảm giác thèm ăn (ăn thoải mái), ngủ quá nhiều hoặc buồn ngủ ( mất ngủ ), cảm giác nặng nề ở các chi được gọi là liệt chì và suy giảm chức năng xã hội đáng kể như một hệ quả của quá mẫn cảm với sự từ chối giữa các cá nhân với nhau .[135]
  • "Trầm cảm catatonic " là một dạng trầm cảm nghiêm trọng và hiếm gặp liên quan đến rối loạn hành vi vận động và các triệu chứng khác. Ở đây, người đó bị câm và gần như sững sờ, bất động hoặc biểu hiện những chuyển động không mục đích hoặc thậm chí kỳ quái. Các triệu chứng catatonic cũng xảy ra trong bệnh tâm thần phân liệt hoặc trong các giai đoạn hưng cảm, hoặc có thể do hội chứng ác tính an thần kinh gây ra.[136]
  • "Trầm cảm với lo âu lo lắng " đã được thêm vào DSM-V như một phương tiện để nhấn mạnh sự đồng xuất hiện giữa trầm cảm hoặc hưng cảm và lo lắng, cũng như nguy cơ tự tử của những người trầm cảm với lo lắng. Chỉ định theo cách như vậy cũng có thể giúp tiên lượng những người được chẩn đoán mắc chứng trầm cảm hoặc rối loạn lưỡng cực.[137]
  • "Trầm cảm khởi phát khi sinh nở" là tình trạng trầm cảm dữ dội, kéo dài và đôi khi tàn phế ở phụ nữ sau khi sinh hoặc khi phụ nữ đang mang thai. DSM-IV-TR đã sử dụng phân loại "trầm cảm sau sinh", nhưng điều này đã được thay đổi để không loại trừ các trường hợp phụ nữ bị trầm cảm khi mang thai. [110] Trầm cảm khởi phát chu sinh có tỷ lệ mắc bệnh ở các bà mẹ mới sinh là 10-15%. DSM-V quy định rằng, để được coi là trầm cảm khi khởi phát chu sinh, khởi phát xảy ra khi mang thai hoặc trong vòng một tháng sau khi sinh. Người ta nói rằng trầm cảm sau sinh có thể kéo dài đến ba tháng.[138]
  • " Rối loạn cảm xúc theo mùa " (SAD) là một dạng trầm cảm, trong đó các giai đoạn trầm cảm xảy ra vào mùa thu hoặc mùa đông và hết vào mùa xuân. Chẩn đoán được thực hiện nếu ít nhất hai đợt xảy ra trong những tháng lạnh hơn mà không xảy ra vào các thời điểm khác, trong khoảng thời gian hai năm hoặc lâu hơn.[139]

Chẩn đoán phân biệt

Để xác định rối loạn trầm cảm nặng là chẩn đoán có khả năng xảy ra nhất, các chẩn đoán tiềm năng khác phải được xem xét, bao gồm rối loạn nhịp tim, rối loạn điều chỉnh với tâm trạng chán nản hoặc rối loạn lưỡng cực. Bệnh rối loạn nhịp tim là một rối loạn tâm trạng mãn tính, nhẹ hơn, trong đó một người báo cáo tâm trạng thấp gần như hàng ngày trong khoảng thời gian ít nhất hai năm. Các triệu chứng không nghiêm trọng như các triệu chứng trầm cảm nặng, mặc dù những người mắc chứng rối loạn nhịp tim dễ bị các đợt trầm cảm nặng thứ phát (đôi khi được gọi là trầm cảm kép ). [140] Rối loạn điều chỉnh với tâm trạng chán nản là rối loạn tâm trạng xuất hiện như một phản ứng tâm lý đối với một sự kiện hoặc tác nhân gây căng thẳng có thể xác định được, trong đó các triệu chứng cảm xúc hoặc hành vi dẫn đến là đáng kể nhưng không đáp ứng các tiêu chí cho một giai đoạn trầm cảm nặng. [141] Rối loạn lưỡng cực, còn được gọi là rối loạn hưng cảm - trầm cảm, là một tình trạng trong đó các giai đoạn trầm cảm xen kẽ với các giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm . Mặc dù trầm cảm hiện được phân loại là một chứng rối loạn riêng biệt, nhưng vẫn có cuộc tranh luận đang diễn ra vì những người được chẩn đoán mắc chứng trầm cảm nặng thường trải qua một số triệu chứng hưng cảm, cho thấy một rối loạn tâm trạng liên tục. [142] Các chẩn đoán phân biệt khác liên quan đến hội chứng mệt mỏi mãn tính . [143]

Các rối loạn khác cần được loại trừ trước khi chẩn đoán rối loạn trầm cảm nặng. Chúng bao gồm trầm cảm do bệnh tật, thuốc menlạm dụng chất kích thích . Trầm cảm do bệnh lý thể chất được chẩn đoán là rối loạn tâm trạng do tình trạng bệnh lý nói chung . Tình trạng này được xác định dựa trên tiền sử, phát hiện trong phòng thí nghiệm hoặc khám sức khỏe . Khi trầm cảm do dùng thuốc, lạm dụng thuốc hoặc tiếp xúc với chất độc, thì bệnh này được chẩn đoán là một chứng rối loạn tâm trạng cụ thể (trước đây được gọi là rối loạn tâm trạng do chất gây ra trong DSM-IV-TR). [144]

Tầm soát/sàng lọc và phòng ngừa

Kể từ năm 2016, Lực lượng Đặc nhiệm Dịch vụ Dự phòng Hoa Kỳ (USPSTF) đã khuyến nghị tầm soát trầm cảm ở những người trên 12 tuổi; [145] [146] một tổng quan của Cochrane năm 2005 cho thấy việc sử dụng thường quy bảng câu hỏi sàng lọc ít ảnh hưởng đến việc phát hiện hoặc điều trị. [147]

Các nỗ lực phòng ngừa có thể làm giảm tỷ lệ của trầm cảm xuống từ 22 đến 38%. [148] Ăn một lượng lớn cá cũng có thể làm giảm nguy cơ. [149]

Các can thiệp hành vi, chẳng hạn như liệu pháp giao tiếp giữa các cá nhânliệu pháp nhận thức-hành vi, có hiệu quả trong việc ngăn ngừa chứng trầm cảm mới khởi phát. [150] [151] [152] Bởi vì những biện pháp can thiệp như vậy có vẻ hiệu quả nhất khi được phân phối cho các cá nhân hoặc nhóm nhỏ, người ta gợi ý rằng họ có thể tiếp cận đối tượng mục tiêu lớn của mình một cách hiệu quả nhất thông qua Internet . [153]

Tuy nhiên, một phân tích tổng hợp trước đó cho thấy các chương trình phòng ngừa với thành phần nâng cao năng lực vượt trội hơn so với các chương trình định hướng hành vi về tổng thể và nhận thấy các chương trình hành vi đặc biệt không hữu ích cho người lớn tuổi, những người mà các chương trình hỗ trợ xã hội chỉ mang lại lợi ích cho họ. Ngoài ra, các chương trình ngăn ngừa trầm cảm tốt nhất bao gồm hơn tám phiên, mỗi phiên kéo dài từ 60 đến 90 phút, được cung cấp bởi sự kết hợp của những người lao động chuyên nghiệp và giáo dân, có thiết kế nghiên cứu chất lượng cao, tỷ lệ hao mòn được báo cáo và có - can thiệp xác định. [154]

Hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần của Hà Lan cung cấp các biện pháp can thiệp phòng ngừa, chẳng hạn như khóa học "Đối phó với trầm cảm" (CWD) cho những người bị trầm cảm dưới ngưỡng. Khóa học được cho là thành công nhất của các can thiệp tâm lý để điều trị và phòng ngừa trầm cảm (cả về khả năng thích ứng với các quần thể khác nhau và kết quả của nó), với việc giảm 38% nguy cơ mắc bệnh trầm cảm nặng và hiệu quả như một phương pháp điều trị so sánh thuận lợi đến các liệu pháp tâm lý khác. [155] [156]

Xem thêm

Liên kết ngoài

Chú thích

  1. ^ a b c d e f g h “Depression”. NIMH. tháng 5 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2016.
  2. ^ a b c d e f g h Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, ISBN 978-0-89042-555-8
  3. ^ Dịch tể học các rối loạn trầm cảm và lo âu trong chăm sóc sức khoẻ ban đầu, www.medinet.hochiminhcity.gov.vn
  4. ^ a b Patton, Lauren L. (2015). The ADA Practical Guide to Patients with Medical Conditions (ấn bản 2). John Wiley & Sons. tr. 339. ISBN 978-1-118-92928-5.
  5. ^ Fournier JC, DeRubeis RJ, Hollon SD, Dimidjian S, Amsterdam JD, Shelton RC, Fawcett J (tháng 1 năm 2010). “Antidepressant drug effects and depression severity: a patient-level meta-analysis”. JAMA. 303 (1): 47–53. doi:10.1001/jama.2009.1943. PMC 3712503. PMID 20051569.
  6. ^ Kirsch I, Deacon BJ, Huedo-Medina TB, Scoboria A, Moore TJ, Johnson BT (tháng 2 năm 2008). “Initial severity and antidepressant benefits: a meta-analysis of data submitted to the Food and Drug Administration”. PLOS Medicine. 5 (2): e45. doi:10.1371/journal.pmed.0050045. PMC 2253608. PMID 18303940.
  7. ^ Driessen E, Hollon SD (tháng 9 năm 2010). “Cognitive behavioral therapy for mood disorders: efficacy, moderators and mediators”. The Psychiatric Clinics of North America. 33 (3): 537–55. doi:10.1016/j.psc.2010.04.005. PMC 2933381. PMID 20599132.
  8. ^ American Psychiatric Association (2006). American Psychiatric Association Practice Guidelines for the Treatment of Psychiatric Disorders: Compendium 2006. American Psychiatric Pub. tr. 780. ISBN 978-0-89042-385-1.
  9. ^ a b c d Kessler RC, Bromet EJ (2013). “The epidemiology of depression across cultures”. Annual Review of Public Health. 34: 119–38. doi:10.1146/annurev-publhealth-031912-114409. PMC 4100461. PMID 23514317.
  10. ^ GBD 2017 Disease and Injury Incidence and Prevalence Collaborators (10 tháng 11 năm 2018). “Global, regional, and national incidence, prevalence, and years lived with disability for 354 diseases and injuries for 195 countries and territories, 1990–2017: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2017”. Lancet. 392 (10159): 1789–1858. doi:10.1016/S0140-6736(18)32279-7. PMC 6227754. PMID 30496104. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2020.
  11. ^ Global Burden of Disease Study 2013 Collaborators (tháng 8 năm 2015). “Global, regional, and national incidence, prevalence, and years lived with disability for 301 acute and chronic diseases and injuries in 188 countries, 1990–2013: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2013”. Lancet. 386 (9995): 743–800. doi:10.1016/S0140-6736(15)60692-4. PMC 4561509. PMID 26063472.
  12. ^ “The development of diagnostic criteria in psychiatry” (PDF). 1975. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2008.
  13. ^ Strakowski, Stephen M.; Nelson, Erik (2015). “Introduction”. Major Depressive Disorder. Oxford University Press. tr. Chapter 1. ISBN 978-0-19-020618-5.
  14. ^ Hankin, Benjamin L.; Abela, John R. Z. (2005). Development of Psychopathology: A Vulnerability-Stress Perspective (bằng tiếng Anh). SAGE Publications. tr. 32–34. ISBN 9781412904902.
  15. ^ , ISBN 978-0-89042-555-8 |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  16. ^ Department of Health and Human Services (1999). “The fundamentals of mental health and mental illness” (PDF). Mental Health: A Report of the Surgeon General. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
  17. ^ Caspi A, Sugden K, Moffitt TE, Taylor A, Craig IW, Harrington H, McClay J, Mill J, Martin J, Braithwaite A, Poulton R (tháng 7 năm 2003). “Influence of life stress on depression: moderation by a polymorphism in the 5-HTT gene”. Science. 301 (5631): 386–89. Bibcode:2003Sci...301..386C. doi:10.1126/science.1083968. PMID 12869766.
  18. ^ Haeffel GJ, Getchell M, Koposov RA, Yrigollen CM, Deyoung CG, Klinteberg BA, Oreland L, Ruchkin VV, Grigorenko EL (tháng 1 năm 2008). “Association between polymorphisms in the dopamine transporter gene and depression: evidence for a gene-environment interaction in a sample of juvenile detainees” (PDF). Psychological Science. 19 (1): 62–69. doi:10.1111/j.1467-9280.2008.02047.x. PMID 18181793. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2008.
  19. ^ Slavich GM (2004). “Deconstructing depression: A diathesis-stress perspective (Opinion)”. APS Observer. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
  20. ^ Saveanu RV, Nemeroff CB (tháng 3 năm 2012). “Etiology of depression: genetic and environmental factors”. The Psychiatric Clinics of North America. 35 (1): 51–71. doi:10.1016/j.psc.2011.12.001. PMID 22370490.
  21. ^ Sullivan PF, Neale MC, Kendler KS (tháng 10 năm 2000). “Genetic epidemiology of major depression: review and meta-analysis”. The American Journal of Psychiatry. 157 (10): 1552–62. doi:10.1176/appi.ajp.157.10.1552. PMID 11007705.
  22. ^ Wray, NR (tháng 5 năm 2018). “Genome-wide association analyses identify 44 risk variants and refine the genetic architecture of major depression”. Nature Genetics. 50 (5): 668–681. doi:10.1038/s41588-018-0090-3. PMC 5934326. PMID 29700475.
  23. ^ Howard DM, Adams MJ, Clarke TK, Hafferty JD, Gibson J, Shirali M, và đồng nghiệp (tháng 3 năm 2019). “Genome-wide meta-analysis of depression identifies 102 independent variants and highlights the importance of the prefrontal brain regions”. Nature Neuroscience. 22 (3): 343–352. doi:10.1038/s41593-018-0326-7. PMC 6522363. PMID 30718901.[cần cập nhật]
  24. ^ Caspi A, Sugden K, Moffitt TE, Taylor A, Craig IW, Harrington H, McClay J, Mill J, Martin J, Braithwaite A, Poulton R (tháng 7 năm 2003). “Influence of life stress on depression: moderation by a polymorphism in the 5-HTT gene”. Science. 301 (5631): 386–89. Bibcode:2003Sci...301..386C. doi:10.1126/science.1083968. PMID 12869766.
  25. ^ Kendler KS, Kuhn JW, Vittum J, Prescott CA, Riley B (tháng 5 năm 2005). “The interaction of stressful life events and a serotonin transporter polymorphism in the prediction of episodes of major depression: a replication”. Archives of General Psychiatry. 62 (5): 529–35. doi:10.1001/archpsyc.62.5.529. PMID 15867106.
  26. ^ Risch N, Herrell R, Lehner T, Liang KY, Eaves L, Hoh J, Griem A, Kovacs M, Ott J, Merikangas KR (tháng 6 năm 2009). “Interaction between the serotonin transporter gene (5-HTTLPR), stressful life events, and risk of depression: a meta-analysis”. JAMA. 301 (23): 2462–71. doi:10.1001/jama.2009.878. PMC 2938776. PMID 19531786.
  27. ^ Munafò MR, Durrant C, Lewis G, Flint J (tháng 2 năm 2009). “Gene X environment interactions at the serotonin transporter locus”. Biological Psychiatry. 65 (3): 211–19. doi:10.1016/j.biopsych.2008.06.009. PMID 18691701.
  28. ^ Karg K, Burmeister M, Shedden K, Sen S (tháng 5 năm 2011). “The serotonin transporter promoter variant (5-HTTLPR), stress, and depression meta-analysis revisited: evidence of genetic moderation”. Archives of General Psychiatry. 68 (5): 444–54. doi:10.1001/archgenpsychiatry.2010.189. PMC 3740203. PMID 21199959.
  29. ^ Culverhouse RC, Saccone NL, Horton AC, Ma Y, Anstey KJ, Banaschewski T, và đồng nghiệp (tháng 1 năm 2018). “Collaborative meta-analysis finds no evidence of a strong interaction between stress and 5-HTTLPR genotype contributing to the development of depression”. Molecular Psychiatry. 23 (1): 133–142. doi:10.1038/mp.2017.44. PMC 5628077. PMID 28373689.
  30. ^ Duncan LE, Keller MC (tháng 10 năm 2011). “A critical review of the first 10 years of candidate gene-by-environment interaction research in psychiatry”. The American Journal of Psychiatry. 168 (10): 1041–9. doi:10.1176/appi.ajp.2011.11020191. PMC 3222234. PMID 21890791.
  31. ^ Peyrot WJ, Van der Auwera S, Milaneschi Y, Dolan CV, Madden PA, Sullivan PF, Strohmaier J, Ripke S, Rietschel M, Nivard MG, Mullins N, Montgomery GW, Henders AK, Heat AC, Fisher HL, Dunn EC, Byrne EM, và đồng nghiệp (tháng 7 năm 2018). “Does Childhood Trauma Moderate Polygenic Risk for Depression? A Meta-analysis of 5765 Subjects From the Psychiatric Genomics Consortium”. Biological Psychiatry. 84 (2): 138–147. doi:10.1016/j.biopsych.2017.09.009. PMC 5862738. PMID 29129318.
  32. ^ Simon GE (tháng 11 năm 2001). “Treating depression in patients with chronic disease: recognition and treatment are crucial; depression worsens the course of a chronic illness”. The Western Journal of Medicine. 175 (5): 292–93. doi:10.1136/ewjm.175.5.292. PMC 1071593. PMID 11694462.
  33. ^ Clayton PJ, Lewis CE (tháng 3 năm 1981). “The significance of secondary depression”. Journal of Affective Disorders. 3 (1): 25–35. doi:10.1016/0165-0327(81)90016-1. PMID 6455456.
  34. ^ Kewalramani A, Bollinger ME, Postolache TT (1 tháng 1 năm 2008). “Asthma and Mood Disorders”. International Journal of Child Health and Human Development. 1 (2): 115–23. PMC 2631932. PMID 19180246.
  35. ^ Rogers D, Pies R (tháng 12 năm 2008). “General medical with depression drugs associated”. Psychiatry. 5 (12): 28–41. PMC 2729620. PMID 19724774.
  36. ^ Botts S, Ryan M. Drug-Induced Diseases Section IV: Drug-Induced Psychiatric Diseases Chapter 18: Depression. tr. 1–23. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2010.
  37. ^ Brook DW, Brook JS, Zhang C, Cohen P, Whiteman M (tháng 11 năm 2002). “Drug use and the risk of major depressive disorder, alcohol dependence, and substance use disorders”. Archives of General Psychiatry. 59 (11): 1039–44. doi:10.1001/archpsyc.59.11.1039. PMID 12418937.
  38. ^ Meltzer-Brody S (9 tháng 1 năm 2017). “New insights into perinatal depression: pathogenesis and treatment during pregnancy and postpartum”. Dialogues in Clinical Neuroscience. 13 (1): 89–100. PMC 3181972. PMID 21485749.
  39. ^ Melrose S (1 tháng 1 năm 2015). “Seasonal Affective Disorder: An Overview of Assessment and Treatment Approaches”. Depression Research and Treatment. 2015: 178564. doi:10.1155/2015/178564. PMC 4673349. PMID 26688752.
  40. ^ Ruhé HG, Mason NS, Schene AH (tháng 4 năm 2007). “Mood is indirectly related to serotonin, norepinephrine and dopamine levels in humans: a meta-analysis of monoamine depletion studies”. Molecular Psychiatry. 12 (4): 331–59. doi:10.1038/sj.mp.4001949. PMID 17389902.
  41. ^ Delgado PL, Moreno FA (2000). “Role of norepinephrine in depression”. The Journal of Clinical Psychiatry. 61 Suppl 1: 5–12. PMID 10703757.
  42. ^ Savitz JB, Drevets WC (tháng 4 năm 2013). “Neuroreceptor imaging in depression”. Neurobiology of Disease. 52: 49–65. doi:10.1016/j.nbd.2012.06.001. PMID 22691454.
  43. ^ Hasler G (tháng 10 năm 2010). “Pathophysiology of depression: do we have any solid evidence of interest to clinicians?”. World Psychiatry. 9 (3): 155–61. doi:10.1002/j.2051-5545.2010.tb00298.x. PMC 2950973. PMID 20975857.
  44. ^ Dunlop BW, Nemeroff CB (tháng 3 năm 2007). “The role of dopamine in the pathophysiology of depression”. Archives of General Psychiatry. 64 (3): 327–37. doi:10.1001/archpsyc.64.3.327. PMID 17339521.
  45. ^ Meyer JH, Ginovart N, Boovariwala A, Sagrati S, Hussey D, Garcia A, Young T, Praschak-Rieder N, Wilson AA, Houle S (tháng 11 năm 2006). “Elevated monoamine oxidase a levels in the brain: an explanation for the monoamine imbalance of major depression”. Archives of General Psychiatry. 63 (11): 1209–16. doi:10.1001/archpsyc.63.11.1209. PMID 17088501.
  46. ^ Davis, Kenneth L; Charney, Dennis; Coyle, Joseph T; Nemeroff, Charles biên tập (2002). Neuropsychopharmacology: the fifth generation of progress: an official publication of the American College of Neuropsychopharmacology (ấn bản 5). Philadelphia: Lippincott Williams & Wilkins. tr. 1139–63. ISBN 978-0-7817-2837-9.
  47. ^ Adell A (tháng 4 năm 2015). “Revisiting the role of raphe and serotonin in neuropsychiatric disorders”. The Journal of General Physiology. 145 (4): 257–59. doi:10.1085/jgp.201511389. PMC 4380212. PMID 25825168.
  48. ^ Andrews PW, Bharwani A, Lee KR, Fox M, Thomson JA (tháng 4 năm 2015). “Is serotonin an upper or a downer? The evolution of the serotonergic system and its role in depression and the antidepressant response”. Neuroscience and Biobehavioral Reviews. 51: 164–88. doi:10.1016/j.neubiorev.2015.01.018. PMID 25625874.
  49. ^ Lacasse JR, Leo J (tháng 12 năm 2005). “Serotonin and depression: a disconnect between the advertisements and the scientific literature”. PLOS Medicine. 2 (12): e392. doi:10.1371/journal.pmed.0020392. PMC 1277931. PMID 16268734.
  50. ^ Krishnadas R, Cavanagh J (tháng 5 năm 2012). “Depression: an inflammatory illness?”. Journal of Neurology, Neurosurgery, and Psychiatry. 83 (5): 495–502. doi:10.1136/jnnp-2011-301779. PMID 22423117.
  51. ^ Patel A (tháng 9 năm 2013). “Review: the role of inflammation in depression”. Psychiatria Danubina. 25 Suppl 2: S216–23. PMID 23995180.
  52. ^ Dowlati Y, Herrmann N, Swardfager W, Liu H, Sham L, Reim EK, Lanctôt KL (tháng 3 năm 2010). “A meta-analysis of cytokines in major depression”. Biological Psychiatry. 67 (5): 446–57. doi:10.1016/j.biopsych.2009.09.033. PMID 20015486.
  53. ^ Köhler O, Benros ME, Nordentoft M, Farkouh ME, Iyengar RL, Mors O, Krogh J (tháng 12 năm 2014). “Effect of anti-inflammatory treatment on depression, depressive symptoms, and adverse effects: a systematic review and meta-analysis of randomized clinical trials” (PDF). JAMA Psychiatry. 71 (12): 1381–91. doi:10.1001/jamapsychiatry.2014.1611. PMID 25322082.
  54. ^ Raedler TJ (tháng 11 năm 2011). “Inflammatory mechanisms in major depressive disorder”. Current Opinion in Psychiatry. 24 (6): 519–25. doi:10.1097/YCO.0b013e32834b9db6. PMID 21897249.
  55. ^ Arana GW, Baldessarini RJ, Ornsteen M (tháng 12 năm 1985). “The dexamethasone suppression test for diagnosis and prognosis in psychiatry. Commentary and review”. Archives of General Psychiatry. 42 (12): 1193–204. doi:10.1001/archpsyc.1985.01790350067012. PMID 3000317.
  56. ^ Arana GW, Baldessarini RJ, Ornsteen M (tháng 12 năm 1985). “The dexamethasone suppression test for diagnosis and prognosis in psychiatry. Commentary and review”. Archives of General Psychiatry. 42 (12): 1193–204. doi:10.1001/archpsyc.1985.01790350067012. PMID 3000317.
  57. ^ Varghese FP, Brown ES (tháng 8 năm 2001). “The Hypothalamic-Pituitary-Adrenal Axis in Major Depressive Disorder: A Brief Primer for Primary Care Physicians”. Primary Care Companion to the Journal of Clinical Psychiatry. 3 (4): 151–55. doi:10.4088/pcc.v03n0401. PMC 181180. PMID 15014598.
  58. ^ Lopez-Duran NL, Kovacs M, George CJ (tháng 10 năm 2009). “Hypothalamic-pituitary-adrenal axis dysregulation in depressed children and adolescents: a meta-analysis”. Psychoneuroendocrinology. 34 (9): 1272–83. doi:10.1016/j.psyneuen.2009.03.016. PMC 2796553. PMID 19406581.
  59. ^ Dedovic K, Ngiam J (14 tháng 5 năm 2015). “The cortisol awakening response and major depression: examining the evidence”. Neuropsychiatric Disease and Treatment. 11: 1181–89. doi:10.2147/NDT.S62289. PMC 4437603. PMID 25999722.
  60. ^ Mayberg HS (1 tháng 8 năm 1997). “Limbic-cortical dysregulation: a proposed model of depression”. The Journal of Neuropsychiatry and Clinical Neurosciences. 9 (3): 471–81. doi:10.1176/jnp.9.3.471. PMID 9276848.
  61. ^ Graham J, Salimi-Khorshidi G, Hagan C, Walsh N, Goodyer I, Lennox B, Suckling J (tháng 11 năm 2013). “Meta-analytic evidence for neuroimaging models of depression: state or trait?”. Journal of Affective Disorders. 151 (2): 423–31. doi:10.1016/j.jad.2013.07.002. PMID 23890584.
  62. ^ Hamilton JP, Etkin A, Furman DJ, Lemus MG, Johnson RF, Gotlib IH (tháng 7 năm 2012). “Functional neuroimaging of major depressive disorder: a meta-analysis and new integration of base line activation and neural response data”. The American Journal of Psychiatry. 169 (7): 693–703. doi:10.1176/appi.ajp.2012.11071105. PMID 22535198.
  63. ^ Depression (PDF). National Institute of Mental Health (NIMH). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2008.
  64. ^ Hays RD, Wells KB, Sherbourne CD, Rogers W, Spritzer K (tháng 1 năm 1995). “Functioning and well-being outcomes of patients with depression compared with chronic general medical illnesses”. Archives of General Psychiatry. 52 (1): 11–19. doi:10.1001/archpsyc.1995.03950130011002. PMID 7811158.
  65. ^ American Psychiatric Association 2000a
  66. ^ American Psychiatric Association 2000a
  67. ^ Delgado PL, Schillerstrom J (2009). “Cognitive Difficulties Associated With Depression: What Are the Implications for Treatment?”. Psychiatric Times. 26 (3). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  68. ^ Judd LL, Schettler PJ, Coryell W, Akiskal HS, Fiedorowicz JG (tháng 11 năm 2013). “Overt irritability/anger in unipolar major depressive episodes: past and current characteristics and implications for long-term course”. JAMA Psychiatry. 70 (11): 1171–80. doi:10.1001/jamapsychiatry.2013.1957. PMID 24026579.
  69. ^ a b American Psychiatric Association 2000a
  70. ^ “Insomnia: Assessment and Management in Primary Care”. American Family Physician. 59 (11): 3029–38. 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2014.
  71. ^ Fisher JC, Powers WE, Tuerk DB, Edgerton MT (tháng 3 năm 1975). “Development of a plastic surgical teaching service in a women's correctional institution”. American Journal of Surgery. 129 (3): 269–72. doi:10.1136/bmj.322.7284.482. PMC 1119689. PMID 11222428.
  72. ^ American Psychiatric Association 2000a
  73. ^ American Psychiatric Association 2000a
  74. ^ Delgado PL, Schillerstrom J (2009). “Cognitive Difficulties Associated With Depression: What Are the Implications for Treatment?”. Psychiatric Times. 26 (3). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  75. ^ Faculty of Psychiatry of Old Age, NSW Branch, RANZCP, Kitching D, Raphael B (2001). Consensus Guidelines for Assessment and Management of Depression in the Elderly (PDF). North Sydney, New South Wales: NSW Health Department. tr. 2. ISBN 978-0-7347-3341-2. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2015.
  76. ^ a b American Psychiatric Association 2000a
  77. ^ American Psychiatric Association 2000a
  78. ^ American Psychiatric Association 2000a
  79. ^ Kessler RC, Nelson CB, McGonagle KA, Liu J, Swartz M, Blazer DG (tháng 6 năm 1996). “Comorbidity of DSM-III-R major depressive disorder in the general population: results from the US National Comorbidity Survey”. The British Journal of Psychiatry. Supplement. 168 (30): 17–30. doi:10.1192/S0007125000298371. PMID 8864145.
  80. ^ Hirschfeld RM (tháng 12 năm 2001). “The Comorbidity of Major Depression and Anxiety Disorders: Recognition and Management in Primary Care”. Primary Care Companion to the Journal of Clinical Psychiatry. 3 (6): 244–54. doi:10.4088/PCC.v03n0609. PMC 181193. PMID 15014592.
  81. ^ Grant BF (1995). “Comorbidity between DSM-IV drug use disorders and major depression: results of a national survey of adults”. Journal of Substance Abuse. 7 (4): 481–97. doi:10.1016/0899-3289(95)90017-9. PMID 8838629.
  82. ^ Boden JM, Fergusson DM (tháng 5 năm 2011). “Alcohol and depression”. Addiction. 106 (5): 906–14. doi:10.1111/j.1360-0443.2010.03351.x. PMID 21382111. |hdl-access= cần |hdl= (trợ giúp)
  83. ^ Hallowell EM, Ratey JJ (2005). Delivered from distraction: Getting the most out of life with Attention Deficit Disorder. New York: Ballantine Books. tr. 253–55. ISBN 978-0-345-44231-4.
  84. ^ Depression (PDF). National Institute of Mental Health (NIMH). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2008.
  85. ^ Brunsvold GL, Oepen G (2008). “Comorbid Depression in ADHD: Children and Adolescents”. Psychiatric Times. 25 (10). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2009.
  86. ^ Melartin TK, Rytsälä HJ, Leskelä US, Lestelä-Mielonen PS, Sokero TP, Isometsä ET (tháng 2 năm 2002). “Current comorbidity of psychiatric disorders among DSM-IV major depressive disorder patients in psychiatric care in the Vantaa Depression Study”. The Journal of Clinical Psychiatry. 63 (2): 126–34. doi:10.4088/jcp.v63n0207. PMID 11874213.
  87. ^ Hoge E, Bickham D, Cantor J (tháng 11 năm 2017). “Digital Media, Anxiety, and Depression in Children”. Pediatrics. 140 (Suppl 2): S76–S80. doi:10.1542/peds.2016-1758G. PMID 29093037.
  88. ^ Elhai JD, Dvorak RD, Levine JC, Hall BJ (tháng 1 năm 2017). “Problematic smartphone use: A conceptual overview and systematic review of relations with anxiety and depression psychopathology”. Journal of Affective Disorders. 207: 251–259. doi:10.1016/j.jad.2016.08.030. PMID 27736736.
  89. ^ Bair MJ, Robinson RL, Katon W, Kroenke K (tháng 11 năm 2003). “Depression and pain comorbidity: a literature review”. Archives of Internal Medicine. 163 (20): 2433–45. doi:10.1001/archinte.163.20.2433. PMID 14609780.
  90. ^ Swardfager W, Herrmann N, Marzolini S, Saleem M, Farber SB, Kiss A, Oh PI, Lanctôt KL (tháng 9 năm 2011). “Major depressive disorder predicts completion, adherence, and outcomes in cardiac rehabilitation: a prospective cohort study of 195 patients with coronary artery disease”. The Journal of Clinical Psychiatry. 72 (9): 1181–88. doi:10.4088/jcp.09m05810blu. PMID 21208573.
  91. ^ Schulman J, Shapiro BA (2008). “Depression and Cardiovascular Disease: What Is the Correlation?”. Psychiatric Times. 25 (9).
  92. ^ Yohannes AM, Baldwin RC (2008). “Medical Comorbidities in Late-Life Depression”. Psychiatric Times. 25 (14).
  93. ^ a b Depression (PDF). National Institute of Mental Health (NIMH). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2008.
  94. ^ Kaufmann IM (tháng 9 năm 1993). “Rural psychiatric services. A collaborative model”. Canadian Family Physician. 39: 1957–61. PMC 2379905. PMID 8219844.
  95. ^ “Call for action over Third World depression”. BBC News (Health). British Broadcasting Corporation (BBC). 1 tháng 11 năm 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2008.
  96. ^ Sharp LK, Lipsky MS (tháng 9 năm 2002). “Screening for depression across the lifespan: a review of measures for use in primary care settings”. American Family Physician. 66 (6): 1001–08. PMID 12358212.
  97. ^ Zimmerman M, Chelminski I, Posternak M (tháng 9 năm 2004). “A review of studies of the Hamilton depression rating scale in healthy controls: implications for the definition of remission in treatment studies of depression”. The Journal of Nervous and Mental Disease. 192 (9): 595–601. doi:10.1097/01.nmd.0000138226.22761.39. PMID 15348975.
  98. ^ McPherson A, Martin CR (tháng 2 năm 2010). “A narrative review of the Beck Depression Inventory (BDI) and implications for its use in an alcohol-dependent population”. Journal of Psychiatric and Mental Health Nursing. 17 (1): 19–30. doi:10.1111/j.1365-2850.2009.01469.x. PMID 20100303.
  99. ^ Osman A, Bagge CL, Gutierrez PM, Konick LC, Kopper BA, Barrios FX (tháng 12 năm 2001). “The Suicidal Behaviors Questionnaire-Revised (SBQ-R): validation with clinical and nonclinical samples”. Assessment. 8 (4): 443–54. doi:10.1177/107319110100800409. PMID 11785588.
  100. ^ BV tâm thần ban ngày Mai Hương
  101. ^ Cepoiu M, McCusker J, Cole MG, Sewitch M, Belzile E, Ciampi A (tháng 1 năm 2008). “Recognition of depression by non-psychiatric physicians—a systematic literature review and meta-analysis”. Journal of General Internal Medicine. 23 (1): 25–36. doi:10.1007/s11606-007-0428-5. PMC 2173927. PMID 17968628.
  102. ^ Dale J, Sorour E, Milner G (2008). “Do psychiatrists perform appropriate physical investigations for their patients? A review of current practices in a general psychiatric inpatient and outpatient setting”. Journal of Mental Health. 17 (3): 293–98. doi:10.1080/09638230701498325.
  103. ^ Orengo CA, Fullerton G, Tan R (tháng 10 năm 2004). “Male depression: a review of gender concerns and testosterone therapy”. Geriatrics. 59 (10): 24–30. PMID 15508552.
  104. ^ Parker GB, Brotchie H, Graham RK (tháng 1 năm 2017). “Vitamin D and depression”. Journal of Affective Disorders. 208: 56–61. doi:10.1016/j.jad.2016.08.082. PMID 27750060.
  105. ^ Reid LM, Maclullich AM (2006). “Subjective memory complaints and cognitive impairment in older people”. Dementia and Geriatric Cognitive Disorders. 22 (5–6): 471–85. doi:10.1159/000096295. PMID 17047326.
  106. ^ Katz IR (1998). “Diagnosis and treatment of depression in patients with Alzheimer's disease and other dementias”. The Journal of Clinical Psychiatry. 59 Suppl 9: 38–44. PMID 9720486.
  107. ^ Wright SL, Persad C (tháng 12 năm 2007). “Distinguishing between depression and dementia in older persons: neuropsychological and neuropathological correlates”. Journal of Geriatric Psychiatry and Neurology. 20 (4): 189–98. doi:10.1177/0891988707308801. PMID 18004006.
  108. ^ Sadock 2002
  109. ^ Sadock 2002
  110. ^ “Mental and behavioural disorders: Mood [affective] disorders”. World Health Organization. 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2008.
  111. ^ Sadock 2002
  112. ^ American Psychiatric Association 2000a
  113. ^ Gruenberg AM, Goldstein RD, Pincus HA (2005). “Classification of Depression: Research and Diagnostic Criteria: DSM-IV and ICD-10” (PDF). Biology of Depression. Biology of Depression: From Novel Insights to Therapeutic Strategies (eds J. Licinio and M-L Wong). Wiley-VCH Verlag GmbH. tr. 1–12. doi:10.1002/9783527619672.ch1. ISBN 978-3-527-61967-2. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2008.
  114. ^ “The ICD-10 Classification of Mental and Behavioural Disorders: Clinical descriptions and diagnostic guidelines” (PDF). World Health Organization. 2010. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2014.
  115. ^ The ICD-10 classification of mental and behavioral disorders. Clinical description and diagnostic guideline. Geneva: World Health Organization, 1992
  116. ^ “Diagnostic Criteria for Major Depressive Disorder and Depressive Episodes” (PDF). City of Palo Alto Project Safety Net.
  117. ^ a b Parker, George F. (1 tháng 6 năm 2014). “DSM-5 and Psychotic and Mood Disorders”. Journal of the American Academy of Psychiatry and the Law Online (bằng tiếng Anh). 42 (2): 182–190. ISSN 1093-6793. PMID 24986345.
  118. ^ American Psychiatric Association 2000a
  119. ^ “Mental and behavioural disorders: Mood [affective] disorders”. World Health Organization. 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2008.
  120. ^ American Psychiatric Association 2000a
  121. ^ Parker, George F. (1 tháng 6 năm 2014). “DSM-5 and Psychotic and Mood Disorders”. Journal of the American Academy of Psychiatry and the Law Online (bằng tiếng Anh). 42 (2): 182–190. ISSN 1093-6793. PMID 24986345.
  122. ^ Parker 1996
  123. ^ American Psychiatric Association 2000a
  124. ^ Wakefield JC, Schmitz MF, First MB, Horwitz AV (tháng 4 năm 2007). “Extending the bereavement exclusion for major depression to other losses: evidence from the National Comorbidity Survey”. Archives of General Psychiatry. 64 (4): 433–40. doi:10.1001/archpsyc.64.4.433. PMID 17404120. Tóm lược dễ hiểuThe Washington Post (3 tháng 4 năm 2007).
  125. ^ Kendler KS, Gardner CO (tháng 2 năm 1998). “Boundaries of major depression: an evaluation of DSM-IV criteria”. The American Journal of Psychiatry. 155 (2): 172–77. doi:10.1176/ajp.155.2.172 (không hoạt động 19 January 2021). PMID 9464194.Quản lý CS1: DOI không hoạt động tính đến tháng 1 2021 (liên kết)
  126. ^ Sadock 2002
  127. ^ American Psychiatric Association 2000a
  128. ^ Carta MG, Altamura AC, Hardoy MC, Pinna F, Medda S, Dell'Osso L, Carpiniello B, Angst J (tháng 6 năm 2003). “Is recurrent brief depression an expression of mood spectrum disorders in young people? Results of a large community sample”. European Archives of Psychiatry and Clinical Neuroscience. 253 (3): 149–53. doi:10.1007/s00406-003-0418-5. PMID 12904979. |hdl-access= cần |hdl= (trợ giúp)
  129. ^ Rapaport MH, Judd LL, Schettler PJ, Yonkers KA, Thase ME, Kupfer DJ, Frank E, Plewes JM, Tollefson GD, Rush AJ (tháng 4 năm 2002). “A descriptive analysis of minor depression”. The American Journal of Psychiatry. 159 (4): 637–43. doi:10.1176/appi.ajp.159.4.637. PMID 11925303.
  130. ^ American Psychiatric Association 2000a
  131. ^ “NIMH » Disruptive Mood Dysregulation Disorder”. www.nimh.nih.gov. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2019.
  132. ^ “Premenstrual dysphoric disorder (PMDD)”. womenshealth.gov (bằng tiếng Anh). 12 tháng 7 năm 2017.
  133. ^ Parker, George F. (1 tháng 6 năm 2014). “DSM-5 and Psychotic and Mood Disorders”. Journal of the American Academy of Psychiatry and the Law Online (bằng tiếng Anh). 42 (2): 182–190. ISSN 1093-6793. PMID 24986345.
  134. ^ American Psychiatric Association 2000a
  135. ^ American Psychiatric Association 2000a
  136. ^ American Psychiatric Association 2000a
  137. ^ Parker, George F. (1 tháng 6 năm 2014). “DSM-5 and Psychotic and Mood Disorders”. Journal of the American Academy of Psychiatry and the Law Online (bằng tiếng Anh). 42 (2): 182–190. ISSN 1093-6793. PMID 24986345.
  138. ^ Nonacs, Ruta M (4 tháng 12 năm 2007). “Postpartum depression”. eMedicine. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2008.
  139. ^ American Psychiatric Association 2000a
  140. ^ Sadock 2002
  141. ^ American Psychiatric Association 2000a
  142. ^ Akiskal HS, Benazzi F (tháng 5 năm 2006). “The DSM-IV and ICD-10 categories of recurrent [major] depressive and bipolar II disorders: evidence that they lie on a dimensional spectrum”. Journal of Affective Disorders. 92 (1): 45–54. doi:10.1016/j.jad.2005.12.035. PMID 16488021.
  143. ^ Hawk C, Jason LA, Torres-Harding S (1 tháng 1 năm 2006). “Differential diagnosis of chronic fatigue syndrome and major depressive disorder”. International Journal of Behavioral Medicine. 13 (3): 244–51. CiteSeerX 10.1.1.574.3376. doi:10.1207/s15327558ijbm1303_8. PMID 17078775.
  144. ^ , ISBN 978-0-89042-555-8 |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  145. ^ Siu AL, Bibbins-Domingo K, Grossman DC, Baumann LC, Davidson KW, Ebell M, García FA, Gillman M, Herzstein J, Kemper AR, Krist AH, Kurth AE, Owens DK, Phillips WR, Phipps MG, Pignone MP (tháng 1 năm 2016). “Screening for Depression in Adults: US Preventive Services Task Force Recommendation Statement”. JAMA. 315 (4): 380–87. doi:10.1001/jama.2015.18392. PMID 26813211.
  146. ^ Siu AL (tháng 3 năm 2016). “Screening for Depression in Children and Adolescents: U.S. Preventive Services Task Force Recommendation Statement”. Annals of Internal Medicine. 164 (5): 360–66. doi:10.7326/M15-2957. PMID 26858097.
  147. ^ Gilbody S, House AO, Sheldon TA (tháng 10 năm 2005). “Screening and case finding instruments for depression”. The Cochrane Database of Systematic Reviews (4): CD002792. doi:10.1002/14651858.CD002792.pub2. PMC 6769050. PMID 16235301.
  148. ^ Cuijpers P, van Straten A, Smit F, Mihalopoulos C, Beekman A (tháng 10 năm 2008). “Preventing the onset of depressive disorders: a meta-analytic review of psychological interventions”. The American Journal of Psychiatry. 165 (10): 1272–80. doi:10.1176/appi.ajp.2008.07091422. PMID 18765483.
  149. ^ Li F, Liu X, Zhang D (tháng 3 năm 2016). “Fish consumption and risk of depression: a meta-analysis”. Journal of Epidemiology and Community Health. 70 (3): 299–304. doi:10.1136/jech-2015-206278. PMID 26359502.
  150. ^ Cuijpers P, van Straten A, Smit F, Mihalopoulos C, Beekman A (tháng 10 năm 2008). “Preventing the onset of depressive disorders: a meta-analytic review of psychological interventions”. The American Journal of Psychiatry. 165 (10): 1272–80. doi:10.1176/appi.ajp.2008.07091422. PMID 18765483.
  151. ^ Muñoz RF, Beardslee WR, Leykin Y (May–June 2012). “Major depression can be prevented”. The American Psychologist. 67 (4): 285–95. doi:10.1037/a0027666. PMC 4533896. PMID 22583342.
  152. ^ Chú thích trống (trợ giúp)
  153. ^ Griffiths KM, Farrer L, Christensen H (2010). “The efficacy of internet interventions for depression and anxiety disorders: a review of randomised controlled trials” (PDF). Medical Journal of Australia. 192 (11): 4–11. doi:10.5694/j.1326-5377.2010.tb03685.x. PMID 20528707. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2014.
  154. ^ “Predictors of efficacy in depression prevention programmes” (PDF). British Journal of Psychiatry. 2003. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2009.
  155. ^ Muñoz RF, Beardslee WR, Leykin Y (May–June 2012). “Major depression can be prevented”. The American Psychologist. 67 (4): 285–95. doi:10.1037/a0027666. PMC 4533896. PMID 22583342.
  156. ^ Cuijpers P, Muñoz RF, Clarke GN, Lewinsohn PM (tháng 7 năm 2009). “Psychoeducational treatment and prevention of depression: the "Coping with Depression" course thirty years later”. Clinical Psychology Review. 29 (5): 449–58. doi:10.1016/j.cpr.2009.04.005. PMID 19450912.