Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Hữu Cảnh”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 4: Dòng 4:


==Gia thế và cuộc đời==
==Gia thế và cuộc đời==
===Gia thế===
Ông còn có tên là '''Nguyễn Hữu Kính''', sinh năm 1650, tại [[huyện Lệ Thủy]], tỉnh [[Quảng Bình]], con thứ ba của danh tướng [[Nguyễn Hữu Dật]]. Tổ tiên vốn ở làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh [[Thanh Hóa]], theo chúa [[Nguyễn Hoàng]] di cư vào Nam. Vốn dòng dõi con nhà tướng, ông cũng kế tục được sự nghiệp, được người đương thời tôn xưng danh hiệu "Hắc Hổ" ( ông sinh năm Dần và có nước da đen, vóc dáng hùng dũng), được chúa Nguyễn phong tước Lễ Thành Hầu.
Ông còn có tên là '''Nguyễn Hữu Kính''', sinh năm 1650, tại [[huyện Lệ Thủy]], tỉnh [[Quảng Bình]], con thứ ba của danh tướng [[Nguyễn Hữu Dật]]. Theo tài liệu khác<ref>Sách ''Lế Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh và công cuộc khai sáng miền nam nước Việt cuối thế kỷ XVII'' của Nguyễn Ngọc Hiền</ref> thì ông sinh tại nơi sau này là thôn Phúc Long, xã Chương Tín, huyện Phong Lộc, tỉnh [[Quảng Bình]]. Tổ tiên vốn ở làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh [[Thanh Hóa]], theo chúa [[Nguyễn Hoàng]] di cư vào Nam. Vốn dòng dõi con nhà tướng, ông cũng kế tục được sự nghiệp, được người đương thời tôn xưng danh hiệu "Hắc Hổ" ( ông sinh năm Dần và có nước da đen, vóc dáng hùng dũng), được chúa Nguyễn phong tước Lễ Thành Hầu.


===Nam chinh===
Năm 1693, ông được cử đem quân chinh phạt [[Chiêm Thành]] đánh dẹp cuộc nổi dậy của vua Bà Tranh, lập trấn Thuận Thành (đất Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay); được cử làm trấn thủ dinh Bình Khang (vùng Khánh Hòa - Bình Thuận).
Năm 1693, ông được cử đem quân chinh phạt [[Chiêm Thành]] đánh dẹp cuộc nổi dậy của vua Bà Tranh, lập trấn Thuận Thành (đất Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay); được cử làm trấn thủ dinh Bình Khang (vùng Khánh Hòa - Bình Thuận).


Dòng 11: Dòng 13:


Năm 1699, vua Chân Lạp là Nặc Thu đem quân tiến công [[Đại Việt]], ông được đi đánh dẹp. Trên đường trở về, bị bệnh mất đột ngột (1700).
Năm 1699, vua Chân Lạp là Nặc Thu đem quân tiến công [[Đại Việt]], ông được đi đánh dẹp. Trên đường trở về, bị bệnh mất đột ngột (1700).

===Quan hệ thân tộc===
Tất cả sử cũ đều ghi [[Nguyễn Hữu Hào]] và Nguyễn Hữu Cảnh là con của Nguyễn Hữu Dật. Tuy nhiên, theo sách ''Tiến trình văn nghệ miền nam'' (Nxb. An Giang, 1990) ở trang 16 lại ghi Nguyễn Hữu Dật là anh Nguyễn Hữu Cảnh.


===Năm mất===
===Năm mất===

Phiên bản lúc 03:44, ngày 16 tháng 10 năm 2006

Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh hay Nguyễn Hữu Kính (16501700?) là một tướng của chúa Nguyễn Phúc Chu. Ông được xem là người xác lập chủ quyền cho người Việt tại vùng đất Sài Gòn-Gia Định vào năm 1698. Kể từ thời điểm đó, Sài Gòn-Gia Định chính thức trở thành một đơn vị hành chính thuộc lãnh thổ Việt Nam.

Năm Mậu Dần 1698, ông được chúa Nguyễn Phúc Chu cử vào kinh lược phía Nam. Ông đã lập Gia Định phủ, huyện Phước Long, dựng dinh Phiên Trấn và đặt các chức vị quản trị... Do công cuộc này, ông được coi là người đặt nền móng cho công cuộc mở đất phương Nam: chiêu dân, lập ấp, thiết lập nền hành chánh cai trị và gìn giữ biên cương. Bên cạnh đó, đã chọn vùng Sài Côn (Sài Gòn) làm trung tâm cho cả vùng đất mới, giao điểm giữa các tuyến đường giao thông sông biển, nối liền cả dãy Trường Sơn và vùng bình nguyên phía Tây, tiện lợi cho cả việc định cư sinh hoạt của nhân dân, là trọng điểm không chỉ về kinh tế mà còn cả đến việc điều binh, trấn áp hoặc chi viện kịp thời mọi cuộc binh biến vùng biên cảnh phía Tây.

Gia thế và cuộc đời

Gia thế

Ông còn có tên là Nguyễn Hữu Kính, sinh năm 1650, tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, con thứ ba của danh tướng Nguyễn Hữu Dật. Theo tài liệu khác[1] thì ông sinh tại nơi sau này là thôn Phúc Long, xã Chương Tín, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình. Tổ tiên vốn ở làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, theo chúa Nguyễn Hoàng di cư vào Nam. Vốn dòng dõi con nhà tướng, ông cũng kế tục được sự nghiệp, được người đương thời tôn xưng danh hiệu "Hắc Hổ" (vì ông sinh năm Dần và có nước da đen, vóc dáng hùng dũng), được chúa Nguyễn phong tước Lễ Thành Hầu.

Nam chinh

Năm 1693, ông được cử đem quân chinh phạt Chiêm Thành đánh dẹp cuộc nổi dậy của vua Bà Tranh, lập trấn Thuận Thành (đất Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay); được cử làm trấn thủ dinh Bình Khang (vùng Khánh Hòa - Bình Thuận).

Năm 1698, được chúa Nguyễn Phúc Chu cử làm Thống suất Chưởng cơ kinh lược xứ Chân Lạp, lập nên dinh Trấn Biên và dinh Phiên Trấn (tức đất Biên Hòa, Gia Định ngày nay).

Năm 1699, vua Chân Lạp là Nặc Thu đem quân tiến công Đại Việt, ông được đi đánh dẹp. Trên đường trở về, bị bệnh mất đột ngột (1700).

Năm mất

Theo Gia Định thành thông chí và hầu hết các quyển sử Việt Nam đều ghi Nguyễn Hữu Cảnh mất năm 1700. Tuy nhiên, ở một số tài liệu khác như của V. Duverynoy, trong cuốn Monographie de la province de Long Xuyên, 1930 (ghi lại theo lời dẫn tham khảo của một số tác giả); Nguyễn Hiến Lê, trong Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Nxb. Nguyễn Hiến Lê. SG, bản in lần đầu năm 1954; Thái Văn Kiểm, trong Đất Việt trời Nam, in năm 1960; Người Long Xuyên, tài liệu thuyết trình tại Long Xuyên ngày 15 tháng 3 năm 1959, đề tài An Giang xưa và nay, được in thành sách, 69 trang, phần "An Giang trên đường chiến đấu chống xâm lăng"; Lê Văn Đức cùng một nhóm văn hữu, trong Việt Nam tự điển, mục từ Cù Hu trang 32, phần III, quyển Thượng; và chữ Đốc Vàng, trang 59, cũng sđd, Nhà sách Khai trí. SG, xuất bản in năm 1960; Lê Ngọc Trụ (cung cấp tài liệu cho ông Nguyễn Hiến Lê trong sách đã dẫn và hiệu đính bộ Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức)... thì lại ghi năm mất khác nhau.

Chức vụ

Theo quan niệm của dân chúng vẫn gọi ông là Chưởng binh Lễ, vì vậy nhiều tài liệu cho rằng ông giữ chức Chưởng binh. Trên thực tế, thời chúa Nguyễn không có chức vụ nào là Chưởng binh. Chức vụ cao nhất mà Nguyễn Hữu Cảnh đảm nhiệm lúc sinh thời là Tổng binh (hoặc Thống binh). Sau khi ông mất, chúa Nguyễn đã truy phong chức Chưởng dinh (sau gọi là Chưởng cơ). Do quan niệm và sự kính trọng của người dân miền Nam đối với Nguyễn Hữu Cảnh, họ đã dùng tên ghép giữa hai chức vụ và tên tự của ông lại thành Chưởng binh Lễ ("Chưởng" của Chưởng dinh hay Chưởng cơ, "binh" của Tổng binh hay Thống binh, Lãnh binh, và "Lễ" là tên tự của ông).

Công cuộc khai phá đất mới

Theo Quốc sử quán triều Nguyễn thì vào năm Mậu Dần (1698), chúa Hiến Tông Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) sai Trấn thủ Bình Khương (hay Bình Khang, nay là Nha Trang) là Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất mà chúa đã chỉ định cho bọn Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình, các di thần nhà Minh không chịu thần phục tân triều nhà Thanh, đem 3.000 hàng quân cùng gia quyến và 50 chiến thuyền đến cư trú, xin làm dân Đại Việt.

Vùng đất này ngày ấy bao gồm từ khu vực Cù lao Phố (nay thuộc Biên Hòa) đến Mỹ Tho. Giữa vùng này có các đồn binh trấn giữ, làm luôn nhiệm vụ thu thuế thương chánh cho cả vùng này. Lúc bấy giờ nơi này đã được khoảng 40.000 hộ, bao gồm cả người bản địa và lưu dân (người Việt, người Hoa, người Khmer).

Khi vào đến nơi, Nguyễn Hữu Cảnh đã ra sức ổn định dân tình, hoạch định cương giới xóm làng, "lấy đất Nông Nại đặt làm Gia Định phủ, lập xứ Đồng Nai là huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy đất Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để quản trị. Nha thuộc có 2 ty là Xá sai ty (coi việc văn án, từ tụng, dưới quyền quan Ký lục) và Lại ty (coi việc tài chính, do quan Cai bộ đứng đầu). Quân binh thì cơ, đội, thuyền, thủy bộ tinh binh và thuộc binh để hộ vệ. Đất đai mở rộng ngàn dặm, cho chiêu mộ lưu dân từ Bố Chánh châu trở vô, đến ở khắp nơi, đặt ra phường, ấp, xã, thôn, chia cắt địa phận, mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh, điền và lập bộ tịch đinh điền. Từ đó con cháu người Hoa ở nơi Trấn Biên thì lập thành xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch"[2].

Thời điểm ấy rộ lên nhiều vụ đánh cướp người Việt tại nhiều nơi hẻo lánh dọc theo sông Cửu Long. Nguyễn Hữu Cảnh đem quân dẹp loạn. Gần cuối tháng 4, tình hình tạm yên, Nguyễn Hữu Cảnh kéo quân về đóng ở cồn Cây Sao (sách gọi Cù lao Sao Mộc hay Tiêu Mộc hoặc châu Sao Mộc - sau này dân địa phương gọi Cù lao Ông Chưởng, ở Chợ Mới, An Giang), báo tin thắng trận về kinh.

Theo Gia Định thành thông chí, ở đây một thời gian ông bị "nhiễm bịnh, hai chân tê bại, ăn uống không được. Gặp ngày Tết Đoan ngọ (mùng 5 tháng 5 Âm lịch) ông miễn cưỡng ra dự tiệc để khuyến lạo tướng sĩ, rồi bị trúng phong và thổ huyết, bịnh tình lần lần trầm trọng. Ngày 14 ông kéo binh về, ngày 16 đến Sầm Giang (Rạch Gầm, Mỹ Tho), rồi mất. Khi ấy chở quan tài về tạm trí ở dinh Trấn Biên, rồi đem việc tâu lên, vua [3] rất thương tiếc, sắc tặng là Hiệp tán Công thần, thụy là Trung Cần, hưởng 51 tuổi. Người Cao Miên lập miếu thờ ông ở đầu châu Nam Vang. Nơi cù lao ông nghỉ bịnh, nhân dân cũng lập đền thờ, được mạng danh là Cù lao ông Lễ. Còn chỗ đình quan tài ở dinh Trấn Biên cũng lập miếu thờ".

Nguyễn Hữu Cảnh hay Nguyễn Hữu Kính

Nguyên danh của ông là Nguyễn Hữu Lễ, có tên khác là Nguyễn Hữu Kính. Do người miền Nam hiểu "kính" và "kỉnh" cùng nghĩa, nên đã gọi kiêng (lần 1) từ "kính" sang "kỉnh", rồi gọi trại (lần 2) từ "kỉnh" sang "kiểng"; sau lại do hiểu rằng "kiểng" và "cảnh" cũng cùng một nghĩa nên gọi trại một lần nữa (lần 3) là "cảnh" - Nguyễn Hữu Cảnh. Và tên gọi này được sử dụng phổ biến nhất.

Theo Giáo sư Trần Kỉnh Hòa, trong "Phần Khảo cứu" in chung sách Hải ngoại ký sự của soạn giả Thích Đại Sán, (bản dịch của Ủy ban Phiên dịch, sử liệu Việt Nam. Viện Đại học Huế, in năm 1963) đã viết rằng Tả Xu Mật là tên khác của Nguyễn Hữu Cảnh. Theo Thích Đại Sán, Tả Xu Mật mất năm Ất Hợi (1695), tại Thuận Hóa.

Ở thị xã Châu Đốc có một con đường (cặp theo kinh ăn ra sông, ngang Cồn Tiên) mang tên Thượng Đăng Lễ. Thực sự phải là Thượng Đẳng Lễ, vì Nguyễn Hữu Cảnh được phong là Thượng đẳng công thần theo các sắc phong tháng 8 năm Ất Sửu (1806) của Gia Long và ngày 29 tháng 11 năm Tự Đức thứ 5 (1852). Tuy nhiên, do sử dụng lâu mà không đính chính nên trở thành thói quen trong dân gian.

Tưởng nhớ

Các miếu thờ

Để tưởng nhớ công đức của Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, nhân dân lập nhiều đền thờ ông.

Trong các sách Hoàn vũ ký, Nhất thống dư địa chí, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam dư địa chí ước biên, Nam Kỳ địa chí... đều có ghi rõ những nơi lập đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh (có nơi gọi "từ đường", có nơi gọi "đền", có nơi gọi "dinh"). Quyển Sử Cao Miên của Lê Hương (Khai Trí xb, 1970) có lời chua dưới một bức ảnh: "Đền thờ ông Nguyễn Văn Thụy (Thoại) vị đại thần Việt Nam bên cạnh vua Cao Miên trong thời kỳ Việt Nam bảo hộ nước này. Đền thờ cất gần Chợ Mới (Phnom Penh) bị bắt buộc phải triệt hạ vào năm 1956". Tuy nhiên, đây thực sự là đền thờ của Nguyễn Hữu Cảnh, vì bức ảnh cho thấy rõ tấm biển ở cổng ghi là Thượng đẳng thần[4] và trong một số tài liệu lịch sử cũng ghi Nguyễn Hữu Cảnh có đền thờ ở Cao Miên. Theo Đại Nam nhất thống chí thì "Đền Lễ công: ở thôn Chu Phú, huyện Tây Xuyên, thờ Nguyễn Hữu Kỉnh. Đền do Nguyễn Văn Thụy (tức Thoại Ngọc Hầu) dựng khi làm Trấn thủ, nay hương lửa vẫn như cũ, thường tỏ anh linh".

Tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, có ít nhất ba đền thờ tọa lạc tại các xã dọc theo con sông mang tên (chức) ông. Đó là các đền thờ tại xã Kiến An, tại thị trấn Chợ Mới (gần "Vàm Trước"), và tại đình Long Kiến (dinh thờ và đình cũ lúc trước đều dựng ở hai bên đầu "Vàm Dưới" sông ông Chưởng, do bị đất lở sụp nhân dân dời đình và dinh vào trong và nhập lại làm một) - đây là di tích do nhân dân dựng lên thờ ông sớm nhất ở An Giang. Về đền thờ tại đình Long Kiến, Đại Nam nhất thống chí có ghi: "Lại ở bãi Cây Sao giữa sông Hậu Giang, là chỗ trước kia Lễ Thành Hầu thắng trận, trở về đóng ở đây. Sau khi chết, dân bãi lập đền thờ".

Cũng tại huyện Chợ Mới, có một cù lao được nhân dân địa phương đặt tên là cù lao ông Chưởng và một con rạch lớn gọi là lòng ông Chưởng. Nhiều đền thờ ông đến nay vẫn còn ở nhiều nơi như Biên Hòa, Long Xuyên, Châu Đốc, Thành phố Hồ Chí Minh...

Văn thơ ca ngợi, truyền tụng công đức Nguyễn Hữu Cảnh còn lưu giữ khá nhiều:

Từ ngày vâng lịnh Trấn Bình Khương,
Bờ cỏi mở thêm mấy dặm trường,
Vun bón cột nền nơi tổ phụ
Dãi dầu tên đạn giúp quân vương
Giặc ngoài vừa nép bên màn hổ
Sao tướng liền sa giữa giọt tương!

(Bài thơ đặt nơi sắc phong tại đền Châu Phú)

Tên đất

Khi vào kinh lược Đồng Nai, Nguyễn Hữu Cảnh chia đất Đông Phố lấy xứ Đồng Nai đặt làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên (Biên Hoà) và lấy Sài Côn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (Sài Gòn). Hữu Cảnh đặt tên Phước Long và Tân Bình đều có dụng ý. Phước Long vốn là tên làng nơi ông sinh ra và Tân Bình cũng là tên một huyện ở Quảng Bình.

Hai chữ Tân và Bình mà ông đặt tên huyện theo quê hương ông, về sau được dùng đặt tên cho nhiều vùng đất ở Nam Bộ. Nhiều thôn, xã, phường thuộc hai tổng Bình Dương và Tân Long có những chữ này như: Bình Đông, Bình Tây, Bình Tiên, Bình Trị, Bình Triệu, Bình Hoà, Bình Chánh, Bình Điền, Bình Phước, Tân Định, Tân Thuận, Tân Hưng, Tân Khai, Tân Mỹ, Tân Phước...

Ghi chú

  1. ^ Sách Lế Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh và công cuộc khai sáng miền nam nước Việt cuối thế kỷ XVII của Nguyễn Ngọc Hiền
  2. ^ Theo Gia Định thành thông chí
  3. ^ Nguyên là chúa Nguyễn Phúc Chu về sau được Gia Long tôn xưng miều hiệu là Hiếu Minh Hoàng đế
  4. ^ Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại chỉ được phong Trung đẳng thần theo sắc truy phong của vua Khải Định năm thứ 9, tháng (?) ngày 25, và sắc của Bảo Đại năm thứ 18, tháng 8 ngày 15. Các sắc này đều ở dạng "bổn nhì" vì sắc thời Minh Mạng đã bị thu hồi

Liên kết ngoài