Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Tranh (Phúc vương)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Eruruu (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
{{otheruses|Lê Tranh}}
{{otheruses|Lê Tranh}}
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
| tên = Phúc Vương
| tên = Ý Khang Phúc Vương
| native name = 懿康福王
| tước vị = Tôn thất Hoàng gia [[Việt Nam]]
| tước vị = [[Hoàng tử]] [[Việt Nam]]
| thêm = vietnam
| thêm = vietnam
| hình =
| hình =
| cỡ hình =
| cỡ hình =
| ghi chú hình =
| ghi chú hình =
| chức vị = Phúc Vương
| chức vị =
| tại vị = [[1471]] – [[1500]]
| tại vị =
| tiền nhiệm =
| tiền nhiệm =
| nhiếp chính =
| nhiếp chính =
Dòng 14: Dòng 15:
| hoàng tộc = [[Nhà Hậu Lê]]
| hoàng tộc = [[Nhà Hậu Lê]]
| kiểu hoàng tộc = Triều đại
| kiểu hoàng tộc = Triều đại
| tên đầy đủ = Lê Tranh
| tên đầy đủ = Lê Tranh (黎錚)
| kiểu tên đầy đủ = Tên thật
| kiểu tên đầy đủ = Tên thật
| phối ngẫu = Trịnh (Thị) Thục Tuân<br />Lưu (Thị) Châu Hạp
| phối ngẫu = Trịnh Thục Tuân<br/>Lưu Châu Hạp
| thông tin con cái = ẩn
| thông tin con cái = ẩn
| con cái =
| con cái =
| miếu hiệu =
| miếu hiệu =
| thụy hiệu = Ý Khang
| thụy hiệu = Ý Khang (懿康)
| cha = [[Lê Thánh Tông]]
| cha = [[Lê Thánh Tông]]
| mẹ = [[Nguyễn]] Tài nhân
| mẹ = [[Nguyễn Tài nhân]]
| sinh = [[1467]]
| sinh = [[1 tháng 4]], [[1467]]
| nơi sinh = [[Thăng Long]]
| nơi sinh = [[Thăng Long]]
| mất = [[1500]]
| mất = [[tháng 8]], [[1500]]
| nơi mất = [[Việt Nam]]
| nơi mất = [[Thăng Long]]
}}
}}
'''Phúc Vương Lê Tranh''' ([[1467]]-[[1500]]), là [[Hoàng tử]] và là [[nhà thơ]] [[Việt Nam]] thời [[nhà ]].
'''Lê Tranh''' ([[chữ Hán]]: 黎錚; [[1 tháng 4]], [[1467]] - [[tháng 8]], [[1500]]), còn gọi '''Phúc vương Tranh''' (福王錚), là một [[Hoàng tử]] và là [[nhà thơ]] rất nổi tiếng thời [[nhà Hậu ]].


==Tiểu sử==
==Tiểu sử==
Ông là người [[lê (họ)|họ Lê]], tên tục là '''Tranh''', sinh ngày 27 [[tháng ba|tháng 3]] ([[âm lịch]]) năm [[Đinh Hợi]] ([[1467]]) tại kinh đô [[Thăng Long]]. Ông là con thứ 6 của vua [[Lê Thánh Tông]] và Tài nhân [[nguyễn|họ Nguyễn]].
Ông là người [[lê (họ)|họ Lê]], tên tục là '''Tranh''', sinh ngày [[1 tháng 4]], năm Quang Thuận thứ 4 ([[1467]]), tại kinh đô [[Thăng Long]]. Ông là con thứ 6 của [[Lê Thánh Tông|Thánh Tông Thuần hoàng đế]] và [[Nguyễn Tài nhân]] (阮才人).


Năm Hồng Đức thứ 2 ([[1471]]), nhà vua sai đại thần Lê Huy Cát mang sách vàng và ấn báu phong Hoàng tử Tranh làm '''Phúc Vương''', cho lập phủ ở phường Đông Tác, huyện Vĩnh Xương thuộc [[Thăng Long]].
Năm Hồng Đức thứ 2 ([[1471]]), Thánh Tông sai đại thần [[Lê Huy Cát]] mang sách vàng và ấn báu phong Hoàng tử Tranh làm '''Phúc Vương''' (福王), cho lập phủ ở phường [[Đông Tác]], huyện [[Vĩnh Xương]] thuộc [[Thăng Long]].


[[Tháng mười hai|Tháng 12]] ([[âm lịch]]) năm [[1486]], Phúc Vương Tranh cưới bà Thục Tuân, con gái Thượng thư [[bộ Binh]] Trịnh Văn Lượng về làm vợ. Năm [[1488]], bà phi ấy mất, Phúc Vương Tranh ở vậy cho tới năm [[1494]], mới cưới người vợ thứ hai là bà Châu Hạp, con gái quan Mậu ân sứ Lưu Cảnh Đức.
[[Tháng 12]], năm Hồng Đức thứ 17 ([[1486]]), Phúc vương bà Thục Tuân, con gái Thượng thư [[bộ Binh]] [[Trịnh Văn Lượng]] (郑文亮) về làm vợ. Năm [[1488]], bà phi ấy mất, Phúc vương ở vậy cho tới năm [[1494]], mới cưới người vợ thứ hai là bà Châu Hạp, con gái quan Mậu ân sứ [[Lưu Cảnh Đức]] (刘景德).


[[Tháng tám|Tháng 8]] ([[âm lịch]]) năm [[1500]], đời vua [[Lê Hiến Tông]], Phúc Vương Tranh mắc bệnh nặng. Sau khi dặn bảo người trong phủ là "việc tang phải tiết kiệm, không làm lễ [[Phật]] và chỉ theo lễ cổ", thì ông mất, hưởng dương 33 tuổi.
[[Tháng 8]] năm Cảnh Thống thứ 4 ([[1500]]), thời gian hoàng huynh [[Lê Hiến Tông]] trị vì, Phúc vương mắc bệnh nặng. Sau khi dặn bảo người trong phủ là ''việc tang phải tiết kiệm, không làm lễ [[Phật]] và chỉ theo lễ cổ'', thì ông mất, hưởng dương 33 tuổi. Thương tiếc ông, Hiến Tông cho bãi triều ba ngày, ban cho tiền làm lễ táng, và ban cho tên thụy là '''Ý Khang''' (懿康).
Thương tiếc ông, nhà vua cho bãi triều ba ngày, ban cho tiền làm lễ táng, và ban cho tên thụy là ''Ý Khang''.


Theo [[Lê Quý Đôn]], ''"...tính Phúc Vương giản dị, thanh đạm, ôn hòa, đứng đắn, thực thà, ít nói, luôn giữ mình theo lễ nghĩa phép tắc, ham mê sách vở (thích nhất là [[Kinh Dịch]], cũng hiểu được ý nghĩa lớn của sách), giỏi viết chữ thảo, rất hay [[thơ]], phong cách thơ thanh cao hùng tráng, đã từng được vua [[Lê Thánh Tông]] đặc biệt khen ngợi, coi trọng. Người đương thời thường sánh ông với Đông Bình và Hà Gian đời xưa"'' <ref>''Đại Việt thông sử'' (bản dịch, tr. 150). Chú thích: Đông Bình tức Đông Bình vương, con trai của vua [[Hán Quang Vũ Đế|Hán Quang Vũ]] ở [[Trung Quốc]]. Đông Bình ham làm việc thiện, có câu nói nổi tiếng là: "Làm việc thiện là điều vui sướng nhất" (vi thiện tối lạc). Hà Gian tức Hà Gian Hiến vương, tên thật là Đức, con vua [[Hán Cảnh Đế]] ở [[Trung Quốc]]. Ông ham học tập và sưu tầm sách cổ.</ref>.
Theo [[Lê Quý Đôn]], ''...tính Phúc Vương giản dị, thanh đạm, ôn hòa, đứng đắn, thực thà, ít nói, luôn giữ mình theo lễ nghĩa phép tắc, ham mê sách vở (thích nhất là [[Kinh Dịch]], cũng hiểu được ý nghĩa lớn của sách), giỏi viết chữ thảo, rất hay [[thơ]], phong cách thơ thanh cao hùng tráng, đã từng được vua [[Lê Thánh Tông]] đặc biệt khen ngợi, coi trọng. Người đương thời thường sánh ông với Đông Bình và Hà Gian đời xưa"'' <ref>''Đại Việt thông sử'' (bản dịch, tr. 150). Chú thích: Đông Bình tức Đông Bình vương, con trai của vua [[Hán Quang Vũ Đế|Hán Quang Vũ]] ở [[Trung Quốc]]. Đông Bình ham làm việc thiện, có câu nói nổi tiếng là: "Làm việc thiện là điều vui sướng nhất" (vi thiện tối lạc). Hà Gian tức Hà Gian Hiến vương, tên thật là Đức, con vua [[Hán Cảnh Đế]] ở [[Trung Quốc]]. Ông ham học tập và sưu tầm sách cổ.</ref>.


==Khu đền mộ==
==Khu đền mộ==
Sau khi Phúc Vương Tranh mất, [[tháng mười|tháng 10]] ([[âm lịch]]) năm đó ([[1500]]), người thân đưa ông về an táng tại cánh đồng Hạnh Hoa Khê (tục gọi là xứ Mả Bia) thuộc Tây Mỗ (nay thuộc huyện [[Từ Liêm]], [[Hà Nội]]), là quê mẹ của Phúc Vương Tranh.
Sau khi Phúc Vương mất, [[tháng 10]] năm đó ([[1500]]), người thân đưa ông về an táng tại cánh đồng Hạnh Hoa Khê (tục gọi là xứ Mả Bia) thuộc Tây Mỗ (nay thuộc huyện [[Từ Liêm]], [[Hà Nội]]), là quê mẹ của Phúc Vương.

Năm [[1944]], [[nhà văn]] [[Trúc Khê]] có tới thăm mộ Phúc Vương Tranh, thì thấy đó là một nấm đất rộng, trên phủ cỏ, ước chừng ba bốn mét đường kính. Ở đầu mộ có dựng một tấm bia đứng trên lưng rùa (lớn bằng tấm bia lớn ở Văn Miếu [[Hà Nội]]), mặt chính hướng về hướng Nam, nhưng vì trải nhiều năm tháng nên đã mòn hết chữ. Cách mộ chừng trăm bước là ngôi đền nhỏ hẹp, sự phụng tự bên trong cũng khá thanh giản. Ngoài ra, trong đền còn có tấm bia ghi sự dựng đền và tu sửa đền <ref>Theo bài viết "Thăm mộ nhà thơ Phúc Vương Tranh" của [[Trúc Khê]], tr. 574-575.</ref>.
Năm [[1944]], [[nhà văn]] [[Trúc Khê]] có tới thăm mộ Phúc Vương, thì thấy đó là một nấm đất rộng, trên phủ cỏ, ước chừng ba bốn mét đường kính. Ở đầu mộ có dựng một tấm bia đứng trên lưng rùa (lớn bằng tấm bia lớn ở Văn Miếu [[Hà Nội]]), mặt chính hướng về hướng Nam, nhưng vì trải nhiều năm tháng nên đã mòn hết chữ. Cách mộ chừng trăm bước là ngôi đền nhỏ hẹp, sự phụng tự bên trong cũng khá thanh giản. Ngoài ra, trong đền còn có tấm bia ghi sự dựng đền và tu sửa đền <ref>Theo bài viết "Thăm mộ nhà thơ Phúc Vương Tranh" của [[Trúc Khê]], tr. 574-575.</ref>.
==Thơ Phúc Vương Tranh==
==Thơ văn==
Thơ văn của Phúc Vương Tranh đã thất lạc hết, hiện chỉ còn lại hai bài thơ [[chữ Hán]] được chép trong ''[[Hoàng Việt thi tuyển]]'' do [[Bùi Huy Bích]] biên soạn. Đó là bài '''Phụng họa Ngự chế Thiên vực giang hiểu phát''' (làm theo thể thất ngôn bát cú), và bài '''Xuân tảo''' (làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt). Theo [[nhà văn]] [[Trúc Khê]], thì "cứ xem hai bài ấy cũng đủ biết Vương là một nhà thơ rất lỗi lạc" <ref>Trúc Khê, bài viết đã dẫn, tr. 573.</ref>.
Thơ văn của Phúc Vương Tranh đã thất lạc hết, hiện chỉ còn lại hai bài thơ [[chữ Hán]] được chép trong ''[[Hoàng Việt thi tuyển]]'' do [[Bùi Huy Bích]] biên soạn. Đó là bài '''Phụng họa Ngự chế Thiên vực giang hiểu phát''' (làm theo thể thất ngôn bát cú) và bài '''Xuân tảo''' (làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt). Theo [[nhà văn]] [[Trúc Khê]], thì ''cứ xem hai bài ấy cũng đủ biết Vương là một nhà thơ rất lỗi lạc'' <ref>Trúc Khê, bài viết đã dẫn, tr. 573.</ref>.


{|valign="top"
{|valign="top"

Phiên bản lúc 15:23, ngày 18 tháng 1 năm 2015

Ý Khang Phúc Vương
懿康福王
Hoàng tử Việt Nam
Thông tin chung
Sinh1 tháng 4, 1467
Thăng Long
Mấttháng 8, 1500
Thăng Long
Phối ngẫuTrịnh Thục Tuân
Lưu Châu Hạp
Tên thật
Lê Tranh (黎錚)
Thụy hiệu
Ý Khang (懿康)
Triều đạiNhà Hậu Lê
Thân phụLê Thánh Tông
Thân mẫuNguyễn Tài nhân

Lê Tranh (chữ Hán: 黎錚; 1 tháng 4, 1467 - tháng 8, 1500), còn gọi là Phúc vương Tranh (福王錚), là một Hoàng tử và là nhà thơ rất nổi tiếng thời nhà Hậu Lê.

Tiểu sử

Ông là người họ Lê, tên tục là Tranh, sinh ngày 1 tháng 4, năm Quang Thuận thứ 4 (1467), tại kinh đô Thăng Long. Ông là con thứ 6 của Thánh Tông Thuần hoàng đếNguyễn Tài nhân (阮才人).

Năm Hồng Đức thứ 2 (1471), Thánh Tông sai đại thần Lê Huy Cát mang sách vàng và ấn báu phong Hoàng tử Tranh làm Phúc Vương (福王), cho lập phủ ở phường Đông Tác, huyện Vĩnh Xương thuộc Thăng Long.

Tháng 12, năm Hồng Đức thứ 17 (1486), Phúc vương bà Thục Tuân, con gái Thượng thư bộ Binh Trịnh Văn Lượng (郑文亮) về làm vợ. Năm 1488, bà phi ấy mất, Phúc vương ở vậy cho tới năm 1494, mới cưới người vợ thứ hai là bà Châu Hạp, con gái quan Mậu ân sứ Lưu Cảnh Đức (刘景德).

Tháng 8 năm Cảnh Thống thứ 4 (1500), thời gian hoàng huynh Lê Hiến Tông trị vì, Phúc vương mắc bệnh nặng. Sau khi dặn bảo người trong phủ là việc tang phải tiết kiệm, không làm lễ Phật và chỉ theo lễ cổ, thì ông mất, hưởng dương 33 tuổi. Thương tiếc ông, Hiến Tông cho bãi triều ba ngày, ban cho tiền làm lễ táng, và ban cho tên thụy là Ý Khang (懿康).

Theo Lê Quý Đôn, ...tính Phúc Vương giản dị, thanh đạm, ôn hòa, đứng đắn, thực thà, ít nói, luôn giữ mình theo lễ nghĩa phép tắc, ham mê sách vở (thích nhất là Kinh Dịch, cũng hiểu được ý nghĩa lớn của sách), giỏi viết chữ thảo, rất hay thơ, phong cách thơ thanh cao hùng tráng, đã từng được vua Lê Thánh Tông đặc biệt khen ngợi, coi trọng. Người đương thời thường sánh ông với Đông Bình và Hà Gian đời xưa" [1].

Khu đền mộ

Sau khi Phúc Vương mất, tháng 10 năm đó (1500), người thân đưa ông về an táng tại cánh đồng Hạnh Hoa Khê (tục gọi là xứ Mả Bia) thuộc Tây Mỗ (nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội), là quê mẹ của Phúc Vương.

Năm 1944, nhà văn Trúc Khê có tới thăm mộ Phúc Vương, thì thấy đó là một nấm đất rộng, trên phủ cỏ, ước chừng ba bốn mét đường kính. Ở đầu mộ có dựng một tấm bia đứng trên lưng rùa (lớn bằng tấm bia lớn ở Văn Miếu Hà Nội), mặt chính hướng về hướng Nam, nhưng vì trải nhiều năm tháng nên đã mòn hết chữ. Cách mộ chừng trăm bước là ngôi đền nhỏ hẹp, sự phụng tự bên trong cũng khá thanh giản. Ngoài ra, trong đền còn có tấm bia ghi sự dựng đền và tu sửa đền [2].

Thơ văn

Thơ văn của Phúc Vương Tranh đã thất lạc hết, hiện chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán được chép trong Hoàng Việt thi tuyển do Bùi Huy Bích biên soạn. Đó là bài Phụng họa Ngự chế Thiên vực giang hiểu phát (làm theo thể thất ngôn bát cú) và bài Xuân tảo (làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt). Theo nhà văn Trúc Khê, thì cứ xem hai bài ấy cũng đủ biết Vương là một nhà thơ rất lỗi lạc [3].

Phiên âm Hán-Việt:
Phụng họa Ngự chế Thiên vực giang hiểu phát
Hành sắc du du thự sắc nùng,
Hoa khai như hải độ đầu hồng.
Sơn phì thủy tú xuân dung lý,
Ngư dược diên phi thánh hóa trung.
Kha hạm hiểu xung thiêng chướng vụ,
Tinh kỳ tình động nhất thiên phong.
Tiểu thần hạnh đắc bồi thanh tất,
Khoái đổ minh thời chí trị công.
Trúc Khê dịch thơ:
Phụng họa bài thơ ngự chế: Buổi sớm từ sông Thiên Vực ra đi
Đường xa bóng sớm còn dầy,
Trăm hoa tươi thắm nở đầy bên sông.
Nước non rờ rỡ xuân dung,
Rồng bay cá nhẩy trong vòng trời Nghiêu.
Đè sương thuyền ngự veo veo,
Tinh kỳ phấp phới theo chiều gió mai.
Xe loan phận mọn theo đòi,
Bốn phương mừng thấy nơi nơi thái hòa.
Phiên âm Hán-Việt:
Xuân tảo
Ngật tọa niêm hương vạn niệm hy,
Vi biên độc bãi tưởng thiên ky.
Nguyên minh hiểu viện hoa do thấp,
Phong tống hàn canh liễu bất phi.
Trúc Khê dịch thơ:
Sớm xuân
Đốt hương lòng lặng như tờ,
Đọc xong Kinh Dịch ngồi mơ sự trời.
Trăng tàn hoa đẫm sương rơi,
Liễu trong gió sớm không hơi động cành.

Sách tham khảo

Chú thích

  1. ^ Đại Việt thông sử (bản dịch, tr. 150). Chú thích: Đông Bình tức Đông Bình vương, con trai của vua Hán Quang VũTrung Quốc. Đông Bình ham làm việc thiện, có câu nói nổi tiếng là: "Làm việc thiện là điều vui sướng nhất" (vi thiện tối lạc). Hà Gian tức Hà Gian Hiến vương, tên thật là Đức, con vua Hán Cảnh ĐếTrung Quốc. Ông ham học tập và sưu tầm sách cổ.
  2. ^ Theo bài viết "Thăm mộ nhà thơ Phúc Vương Tranh" của Trúc Khê, tr. 574-575.
  3. ^ Trúc Khê, bài viết đã dẫn, tr. 573.