Beautiful Boy (phim)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Beautiful Boy
Áp phích chiếu rạp của bộ phim
Đạo diễnFelix van Groeningen
Sản xuất
Kịch bản
Dựa trên
Diễn viên
Quay phimRuben Impens
Dựng phimNico Leunen
Hãng sản xuất
Phát hànhAmazon Studios
Công chiếu
  • 7 tháng 9 năm 2018 (2018-09-07) (TIFF)
  • 12 tháng 10 năm 2018 (2018-10-12) (Hoa Kỳ)
Độ dài
120 phút[1]
Quốc giaHoa Kỳ
Ngôn ngữen
Kinh phí19,3-25 triệu USD[2][3]
Doanh thu16,6 triệu USD[4]

Beautiful Boy là một bộ phim tiểu sử, chính kịch Mỹ năm 2018 của đạo diễn người Bỉ Felix van Groeningen, cũng là tác phẩm điện ảnh tiếng Anh đầu tay của anh. Kịch bản của phim được chắp bút bởi Luke Davies và van Groeningen dựa trên cuốn hồi kí Beautiful Boy: A Father's Journey Through His Son's Addiction của tác giả David SheffTweak: Growing Up on Methamphetamines của Nic Sheff. Beautiful Boy tập trung khai thác mối quan hệ phụ tử giữa người cha luôn giàu lòng yêu thương David Sheff (Steve Carell) và cậu con trai nghiện ngập của ông, Nic Sheff (Timothée Chalamet). Bộ phim cũng có sự góp mặt của các diễn viên Maura TierneyAmy Ryan.

Beautiful Boy được ra mắt lần đầu tiên trên toàn cầu tại Liên hoan phim quốc tế Toronto vào ngày 7 tháng 9 năm 2018, sau đó Amazon Studios chính thức phát hành bộ phim tại Hoa Kỳ vào ngày 12 tháng 10 năm 2018. Tuy không thành công về mặt thương mại khi chỉ thu về 16 triệu USD trên ngân sách 25 triệu USD nhưng phim lại nhận được phản hồi tích cực từ giới phê bình, đặc biệt là diễn xuất của Carell và Chalamet.[5] Với màn trình diễn của mình, Chalamet mang về đề cử cho hạng mục Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất tại các lễ trao giải như Giải Quả cầu vàng, Giải thưởng của Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh (SAG), Giải BAFTA, Giải Critics’ Choice và một số thành tựu khác.

Nội dung[sửa | sửa mã nguồn]

Nicholas, hay Nic, là con trai của nhà báo tờ New York Times David Sheff. Anh đột nhiên mất tích hai ngày rồi trở về nhà với những dấu hiệu rõ ràng của việc sử dụng ma túy. Thấy được điều này, David ngay lập tức đưa Nic đến trại cai nghiện. Việc điều trị có hiệu quả và anh được các bác sĩ chuyển đến nhà phục hồi. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau, Nic lại biến mất và David tìm thấy anh đang vật vờ trên đường phố.

Trở lại cơ sở cai nghiện, Nic thú nhận rằng anh đã sử dụng vô số các loại ma túy, thậm chí có cả ma túy đá. Anh cuối cùng cũng hoàn thành phác đồ điều trị và bày tỏ mong muốn được quay trở lại trường đại học. Nhận thấy Nic có sự tiến bộ, David cho phép con trai đi học xa nhà để trở thành một nhà văn. Cậu tỏ ra thoải mái và tỉnh táo hơn trước, cũng như có nhiều tiến bộ trong học hành và bắt đầu hẹn hò với Julia, cô bạn cùng lớp xinh đẹp. Trong bữa tối đầm ấm tại nhà của bố mẹ bạn gái, Nic chợt tìm thấy một lọ đầy các viên uống trong tủ thuốc của gia đình. Anh nuốt thử một viên khiến cho cơn nghiện từ từ tái phát lại, làm Julia không còn cách nào khác là phải lập tức chia tay với anh. Cơn thèm thuốc giày vò Nic mãi cho đến khi anh mua được heroin. David nhận ra sự thay đổi bất thường ở cậu con trai, ông quyết định đọc nhật ký của Nic. Trước sự kinh hãi của ông bố tội nghiệp là những trang viết đầy các câu từ và hình vẽ vô cùng đáng sợ mà Nic dùng để diễn tả cơn nghiện ngày một trầm trọng của mình. Trong các trang cuối của cuốn nhật kí, Nic viết rằng anh định mua heroin thay vì ma túy đá vì thấy tàng trữ nó trong trường học là quá khó khăn.

Khi Nic về nhà, David cảm nhận được rằng con trai đang dần sa đà vào con đường cũ. Quá bức bối vì luôn bị cha nghi ngờ chuyện hút chích, Nic lại bỏ đi. Một hôm, hai cha con gặp nhau, Nic xin tiền cha để anh có thể đến New York. David từ chối vì ông biết chắc Nic sẽ lại dùng chúng vào ma túy, khiến anh tức giận rời đi. David đang ở nhà thì bất ngờ nhận được cuộc gọi từ một bệnh viện ở New York nói rằng Nic đã dùng ma túy quá liều. Người cha liền bay đến New York để cứu con trai và sau khi nói chuyện với người vợ cũ của ông—mẹ của Nic, Vicki, ông quyết định rằng Nic nên chuyển đến sống với mẹ ở Los Angeles.

Nic có một khởi đầu mới ở Los Angeles. Anh tham gia vào các buổi gặp mặt phục hồi chức năng, đi chơi với người bảo hộ của anh, Spencer, và thậm chí còn làm công việc giúp đỡ các bệnh nhân mới vượt qua cơn thèm thuốc tại một trung tâm cai nghiện. Suốt 14 tháng liền Nic không hề đụng đến ma túy. Một hôm, anh lái xe về thăm David và gia đình. Thấy Nic trở lại là chính mình và vui vẻ chơi đùa với hai người em cùng cha khác mẹ của anh, David rất đỗi vui mừng và vợ ông Karen cũng vậy. Tuy nhiên, khi Nic rời đi, anh đột ngột mất tinh thần, tỏ ra tức tối với chính sự tỉnh táo hiện tại của mình và lo sợ rằng sẽ lại bị tái nghiện. Spencer cố khuyên can Nic qua điện thoại nhưng vô ích. Tối đó, Nic lái xe đến San Francisco. Tại đây anh gặp lại Lauren, một bạn nghiện cũ của anh, thú nhận rằng muốn được "tiệc tùng" dù đã không dính dáng gì đến ma túy trong suốt một khoảng thời gian dài. Hai người mua đủ các loại ma túy từ những kẻ trên đường phố rồi sau đó đến nhà của Lauren để cùng hút chích và cuối cùng làm tình với nhau.

Biết tin Nic lại mất tích, David liền chuẩn bị lên đường để đi tìm anh nhưng bị Karen ngăn cản, nói rằng ông đã làm mọi thứ có thể vì con trai và chứng nghiện ngập của anh là vô phương cứu chữa. David đành chấp nhận dù rất đau lòng. Một ngày nọ, khi David cùng gia đình đi vắng, Nic và Lauren đột nhập vào nhà của họ và lấy đi một số tài sản có giá trị. Hai người nhanh chóng rời đi khi gia đình David trở về. Lúc đầu, họ không bị phát hiện, nhưng cậu con trai khác của David là Jasper nói với bố mẹ rằng em nhìn thấy Nic, nghe vậy và cả David và Karen đều lao ra tìm họ. Karen phóng xe đuổi theo Nic và Lauren nhưng không thể theo kịp và cuối cùng phải để họ đi.

Lauren sau đó lên cơn sốc thuốc, nhưng Nic kịp thời sơ cứu và cô được đưa đến bệnh viện. Nic vừa khóc vừa gọi cho David để xin ông cho anh được trở về nhà, nhưng người cha không đồng ý. Dù Nic có cố van nài thế nào, David vẫn cúp máy và ông vỡ òa trong nước mắt. Quá đỗi tuyệt vọng, Nic sau đó cũng lên cơn sốc thuốc vì quá liều nhưng anh may mắn sống sót. David cùng Vicki bệnh viện đến thăm con trai, hai cha con ôm nhau khóc.

Cảnh hậu danh đề cho biết Nic đã tỉnh táo trong suốt tám năm sau đó, điều không thể xảy ra nếu như không có tình yêu thương và sự hỗ trợ từ phía gia đình và bạn bè.

Diễn viên[sửa | sửa mã nguồn]

Quá trình sản xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2008, Paramount Pictures và Plan B Entertainment thông báo họ đã mua bản quyền màn ảnh cho hai cuốn sách của cha con nhà Sheff là Beautiful Boy: A Father's Journey Through His Son's Addiction (tạm dịch: Con trai yêu quý: Hành trình của người cha cứu con khỏi cái chết trắng) và Tweak: Growing Up on Methamphetamines (tạm dịch: Đổi thay: Trưởng thành cùng ma túy đá). Cả hai cuốn đều xoay quanh khoảng thời gian nghiện ngập của Nic và quá trình anh phục hồi. Theo hãng phim và nhà sản xuất, họ sẽ sử dụng các tác phẩm mới được xuất bản này để tái hiện bức tranh toàn cảnh về cái chết trắng, từ góc nhìn của một thanh niên trẻ nghiện ma túy đá và người cha bất lực nhìn con ngày một héo mòn.[6] Năm 2011, có thông báo cho rằng biên kịch-đạo diễn Cameron Crowe đã hoàn thành một kịch bản dựa trên hai tác phẩm trên.[7] Sang năm 2012, TheWrap đưa tin Crowe sẽ nắm quyền chỉ đạo bộ phim dựa trên kịch bản của chính mình sau khi tác phẩm điện ảnh lãng mạn Aloha của ông đóng máy, cùng với đó là sự tham gia vào dự án của hãng New Regency khi Paramount quyết định rút lui.[8] Vào tháng 12 năm 2013, Mark Wahlberg được cho là sẽ vào vai nhân vật David Sheff, còn Crowe vẫn giữ vai trò đạo diễn.[9]

Năm 2015, tờ Variety thông báo rằng quyền chỉ đạo bộ phim được chuyển giao cho đạo diễn người Bỉ Felix van Groeningen, ngoài ra biên kịch người Úc Luke Davies cũng đã viết xong một kịch bản mới.[10] Vào tháng 1 năm 2017, báo chí đưa tin Steve Carell và Will Poulter sẽ lần lượt vào vai hai cha con nhà Sheff, bên cạnh đó các nhà sản xuất chính được công bố là Dede Gardner, Jeremy Kleiner và Brad Pitt.[11] Một tháng sau đó, Timothée Chalamet chính thức tham gia vào bộ phim với vai Nic Sheff, còn Carell vẫn vào vai David Sheff như đã được thông báo.[12] Trong một bài phỏng vấn vào năm 2018, van Groeningen tiết lộ trong số hơn 200 băng hình mà anh nhận được từ các diễn viên đang thử vai cho Nic, Chalamet nghiễm nhiên trở nên nổi bật. Anh nói thêm, "Trong quá trình tuyển vai, chúng tôi cố tình không chọn [một diễn viên nổi tiếng]... vì như vậy sẽ đỡ áp lực hơn, nhưng giờ thì thật tuyệt vời... Khi ấy không ai trong số chúng tôi biết được rằng cậu ấy đột nhiên trở thành hiện tượng trên toàn cầu như vậy, nhưng [Chalamet] hoàn toàn xứng đáng với điều đó. Nếu như [danh tiếng của cậu ấy] có thể thu hút nhiều người trẻ đến rạp thì còn gì mừng hơn."[13] Tháng 3 năm 2017, Amy Ryan, Maura Tierney, Kaitlyn Dever, Timothy Hutton và LisaGay Hamilton là các diễn viên được xác nhận tiếp theo của tác phẩm,[14][15][16][17][18] sau đó là Andre Royo vào tháng 4 năm 2017.[19] Trước khi quay phim, van Groeningen đã sắp xếp cho dàn diễn viên hai tuần để diễn tập, một cách làm phổ biến của nền điện ảnh Bỉ nhưng không có ở kinh đô Hollywood.[13]

Quay phim[sửa | sửa mã nguồn]

Quá trình ghi hình cho Beautiful Boy bắt đầu vào ngày 27 tháng 3 năm 2017 cho đến tháng 5 năm 2017 ở khu vực xung quanh Los AngelesSan Francisco.[20][21] Ngôi nhà của gia đình Sheff từng xuất hiện trong seri phim truyền hình Big Little Lies, tuy nhiên cũng đã được nhà thiết kế sản xuất Ethan Tobman thực hiện nhiều sửa đổi, trong đó có quầy bếp.[22]

Theo van Groeningen, những cảnh quay đầu tiên là các phân đoạn dữ dội nhất của bộ phim, trong đó có cảnh Nic phải nhập viện vì dùng ma túy quá liều.[13] Chalamet được chỉ định phải giảm cân vài tuần trước khi quay "cảnh nhập viện" và sau đó nghỉ ngơi hồi phục để tiếp tục hoàn thành các cảnh quay còn lại. Anh cũng cho biết đã có rất nhiều lần "ghé qua" của bác sĩ và những pha "nguy kịch" trong quá trình ghi hình, nói rằng, "Lí trí của bạn biết những gì bạn đang làm là diễn xuất. Nhưng khi bạn đã giảm tới 9 kg và phải liên tục đứng dưới làn mưa nhân tạo trong suốt tám lần quay chỉ với một chiếc áo phông, cơ thể bạn lại không hề hay biết rằng bạn đang diễn."[23]

Quá trình hậu kì của Beautiful Boy mất tổng cộng bảy tháng, trong thời gian đó tác phẩm nhiều lần được chỉnh sửa lại toàn bộ. Nico Leunen, một cộng tác viên lâu năm của van Groeningen, vốn không tham gia vào dự án; tuy nhiên vị đạo diễn cảm thấy không hài lòng với quá trình chỉnh sửa nên Leunen đã được đưa đến Los Angeles để dựng lại bộ phim.[13]

Phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 7 tháng 9 năm 2018, Beautiful Boy đã có buổi công chiếu đầu tiên trên toàn thế giới tại Liên hoan phim quốc tế Toronto với sự tham gia của dàn diễn viên và đạo diễn, bên cạnh đó là David và Nic Scheff bất ngờ xuất hiện sau buổi chiếu.[24][25] Bộ phim xuất hiện tại các rạp chiếu phim Hoa Kỳ vào ngày 12 tháng 10 năm 2018[26] và tại Vương quốc Anh vào ngày 18 tháng 1 năm 2019.[27] Tác phẩm chính thức ra mắt trên nền tảng Amazon Prime vào ngày 3 tháng 1 năm 2019.[28][29]

Đón nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Đánh giá chuyên môn[sửa | sửa mã nguồn]

Trên hệ thống tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, Beautiful Boy có tỉ lệ đánh giá tích cực là 69% dựa trên 245 đánh giá, với số điểm trung bình là 6,5/10. Phần nhận xét chung của phim trên trang web này có nội dung: "Qua Beautiful Boy, Timothée Chalamet và Steve Carell đã mang đến màn trình diễn hiếm có, đủ sức để bù đắp cho những ấn tượng về mặt cảm xúc còn ẩn giấu của câu chuyện."[30] Trên trang Metacritic, số điểm trung bình của bộ phim là 62/100 dựa trên đánh giá của 45 nhà phê bình, cho thấy "phản ứng tích cực chiếm đa số".[31]

Thành tựu[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thưởng Ngày trao giải Hạng mục Đề cử cho Kết quả Chú thích
Liên hoan phim Adelaide 21 tháng 10 năm 2018 Giải Phim điện ảnh quốc tế Beautiful Boy Đề cử [32]
Liên hoan phim Aspen 30 tháng 9 năm 2018 Giải Độc lập tự nhiên van Groeningen, FelixFelix van Groeningen Đoạt giải [33][34]
Giải BAFTA 10 tháng 2 năm 2019 Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất Timothée Chalamet Đề cử [35]
Liên hoan phim quốc tế Chicago 19 tháng 10 năm 2018 Giải thưởng của nhà sáng lập Beautiful Boy Đoạt giải [36]
Giải Critics’ Choice 13 tháng 1 năm 2019 Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất Timothée Chalamet Đề cử [37]
Liên hoan phim quốc tế Flanders 19 tháng 10 năm 2018 Giải Khán giả North Sea Port Beautiful Boy Hạng 5 [38]
[39]
Giải Quả cầu vàng 6 tháng 1 năm 2019 Nam diễn viên điện ảnh phụ xuất sắc nhất Timothée Chalamet Đề cử [40]
Giải Điện ảnh Hollywood 4 tháng 11 năm 2018 Giải Điện ảnh Hollywood cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất Timothée Chalamet Đoạt giải [41][42]
Giải Điện ảnh Hollywood cho đạo diễn đột phá van Groeningen, FelixFelix van Groeningen Đoạt giải
Giải thưởng của Hiệp hội Phê bình phim San Diego 10 tháng 12 năm 2018 Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất Timothée Chalamet Đoạt giải [43]
Liên hoan phim quốc tế San Sebastián 29 tháng 9 năm 2018 Giải Vỏ Sò vàng Beautiful Boy Đề cử [44][45]
Giải Satellite 17 tháng 2 năm 2019 Nam diễn viên điện ảnh phụ xuất sắc nhất Timothée Chalamet Đề cử [46]
Giải thưởng của Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh 27 tháng 1 năm 2019 Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất Timothée Chalamet Đề cử [47]
Liên hoan phim quốc tế Toronto 16 tháng 9 năm 2018 Giải Sự lựa chọn của công chúng Beautiful Boy Đề cử [48][49]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Beautiful Boy”. Angelika Film Center. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2018.
  2. ^ Film and Television Tax Credit Program Program 2.0 (PDF) (Bản báo cáo). California Film Commission. tr. 9. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2018.
  3. ^ Anderson, Erik (ngày 15 tháng 11 năm 2018). “Spirit Awards Nominations Predictions: Bet on 'Beale Street,' 'BlacKkKlansman,' 'Can You Ever Forgive Me?'. AwardsWatch. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2018. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  4. ^ “Beautiful Boy (2018)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2019.
  5. ^ Campbell, Christopher (ngày 8 tháng 9 năm 2018). “Beautiful Boy First Reviews: An Authentic, Powerfully Acted Portrait of Addiction”. Rotten Tomatoes. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2018.
  6. ^ Fleming, Michael (29 tháng 4 năm 2008). “Par, Plan B addicted to memoir pair”. Variety.
  7. ^ Dang, Simon (14 tháng 1 năm 2011). “Cameron Crowe Had A Script About Meth Addict Nic Sheff Rejected By Brad Pitt's Plan B Shingle?”. IndieWire. Truy cập 22 tháng 8 năm 2017.
  8. ^ Foreman, Liza (24 tháng 8 năm 2012). “Cameron Crowe Moving Forward With 'Beautiful Boy' (Exclusive)”. TheWrap. Truy cập 22 tháng 8 năm 2017.
  9. ^ Jagernauth, Kevin (12 tháng 12 năm 2013). “Mark Wahlberg Eyes Cameron Crowe's Meth Addict Drama 'Beautiful Boy'. IndieWire. Truy cập 22 tháng 8 năm 2017.
  10. ^ Kroll, Justin (22 tháng 9 năm 2015). “Felix van Groeningen to Direct 'Beautiful Boy' for New Regency and Plan B (EXCLUSIVE)”. Variety. Truy cập 22 tháng 8 năm 2017.
  11. ^ “Steve Carrell, Will Poulter Eyed to star in Brad Pitt-produced drama 'Beautiful Boy'. Tracking-Board.com. 18 tháng 1 năm 2017. Truy cập 27 tháng 3 năm 2017.
  12. ^ Ford, Rebecca (6 tháng 2 năm 2017). “Sundance Breakout Timothee Chalamet Joining Steve Carell in 'Beautiful Boy' (Exclusive)”. The Hollywood Reporter. Truy cập 27 tháng 3 năm 2017.
  13. ^ a b c d Devos, Thalisa; Ceulemans, Ewoud (15 tháng 6 năm 2018). “Felix Van Groeningen: "In Hollywood mag je niet laten merken dat je twijfelt, anders ben je dood". De Morgen (bằng tiếng Hà Lan). Truy cập 16 tháng 6 năm 2018.
  14. ^ Hipes, Patrick (15 tháng 3 năm 2017). “Amy Ryan Reunites With Steve Carell For Amazon's 'Beautiful Boy'. Deadline Hollywood. Truy cập 27 tháng 3 năm 2017.
  15. ^ Fleming Jr, Mike (16 tháng 3 năm 2017). 'The Affair's Maura Tierney Joins Amazon's 'Beautiful Boy'. Deadline Hollywood. Truy cập 27 tháng 3 năm 2017.
  16. ^ Kit, Borys (22 tháng 3 năm 2017). “Kaitlyn Dever Joins Steve Carell in Amazon Drama 'Beautiful Boy' (Exclusive)”. The Hollywood Reporter. Truy cập 27 tháng 3 năm 2017.
  17. ^ Fleming Jr, Mike (28 tháng 3 năm 2017). “Timothy Hutton Joins Amazon Studios' 'Beautiful Boy'. Deadline Hollywood. Truy cập 29 tháng 3 năm 2017.
  18. ^ N'Duka, Amanda (30 tháng 3 năm 2017). “LisaGay Hamilton Books 'Beautiful Boy' & 'The Last Full Measure'; 'Most Likely To Murder' Adds More Suspects”. Deadline Hollywood. Truy cập 30 tháng 3 năm 2017.
  19. ^ Busch, Anita (13 tháng 4 năm 2017). “Hannah John-Kamen Joins 'Tomb Raider' Cast; Andre Royo Steps Into Amazon's 'Beautiful Boy'. Deadline Hollywood. Truy cập 13 tháng 4 năm 2017.
  20. ^ “Beautiful Boy”. MyEntertainmentWorld. Bản gốc lưu trữ 11 tháng 12 năm 2017. Truy cập 27 tháng 3 năm 2017. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  21. ^ Scerrato, Alisa (12 tháng 5 năm 2017). “Spotted: Steve Carell shooting 'Beautiful Boy' in the Upper Haight”. San Francisco Chronicle. Truy cập 23 tháng 11 năm 2017.
  22. ^ Harris, Hunter (23 tháng 10 năm 2018). “Yes, the Beautiful Boy House Is the Same As the Big Little Lies House”. Vulture.com. Truy cập 24 tháng 10 năm 2018.
  23. ^ Josh Horowitz (8 tháng 12 năm 2017). “Happy Sad Confused” (Podcast). MTV. Sự kiện xảy ra vào lúc 50:03-50:17. Bản gốc lưu trữ 26 tháng 4 năm 2018. Truy cập 17 tháng 6 năm 2018. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  24. ^ “Beautiful Boy”. Liên hoan phim quốc tế Toronto. Truy cập 24 tháng 7 năm 2018.
  25. ^ Vlessing, Etan (24 tháng 7 năm 2018). “Toronto: Timothee Chalamet Starrer 'Beautiful Boy,' Dan Fogelman's 'Life Itself' Among Festival Lineup”. The Hollywood Reporter. Truy cập 24 tháng 7 năm 2018.
  26. ^ D'Alessandro, Anthony (15 tháng 2 năm 2018). “Steve Carell & Timothée Chalamet Title 'Beautiful Boy' Sets Fall Release”. Deadline Hollywood. Truy cập 15 tháng 2 năm 2018.
  27. ^ “BEAUTIFUL BOY in Cinemas on ngày 18 tháng 1 năm 2019”. Filmoria.co.uk. Truy cập 16 tháng 10 năm 2018.
  28. ^ Russell, Scott (13 tháng 12 năm 2018). “Beautiful Boy Comes to Amazon Prime Video in January”. Paste. Truy cập 4 tháng 1 năm 2019.
  29. ^ “One day early #BeautifulBoy is now streaming, only on @primevideo”. Twitter. 3 tháng 1 năm 2019.
  30. ^ “Beautiful Boy (2018)”. Rotten Tomatoes. Fandango Media. Truy cập 18 tháng 2 năm 2020.
  31. ^ “Beautiful Boy reviews”. Metacritic. Truy cập 11 tháng 3 năm 2019.
  32. ^ “$50 000 In Prizes Awarded At ADL Film Fest Ceremony” (Thông cáo báo chí). Adelaide: Adelaide Film Festival. 16 tháng 10 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2020. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |archivedate=|archive-date= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  33. ^ “Aspen Film Announces 39th Aspen Filmfest Program” (Thông cáo báo chí). Aspen, Colo.: Aspen Film Festival (xuất bản 7 tháng 9 năm 2018). 29 tháng 8 năm 2018. Lưu trữ bản gốc 17 tháng 10 năm 2018. Truy cập 17 tháng 10 năm 2018.
  34. ^ “Aspen Filmfest 2018 Special Events: Independent by Nature Award”. Aspen Film Festival. Lưu trữ bản gốc 17 tháng 10 năm 2018. Truy cập 17 tháng 10 năm 2018.
  35. ^ “Bafta Film Awards 2019: All the nominees” (bằng tiếng Anh). 9 tháng 1 năm 2019. Truy cập 24 tháng 1 năm 2019.
  36. ^ Happy as Lazzaro And Ash Is Purest White Are Top Winners at the 54th Chicago International Film Festival” (PDF) (Thông cáo báo chí). Chicago: Liên hoan phim quốc tế Chicago. 29 tháng 8 năm 2018. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2020. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |archivedate=|archive-date= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  37. ^ “Best Actress in a Comedy - Critics' Choice Awards: 'The Favourite' Leads With 14 Nominations”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập 26 tháng 1 năm 2019.
  38. ^ “Programma 45e Film Fest Gent bekend!” [Program 45th Film Fest Gent known!] (bằng tiếng Hà Lan). Liên hoan phim quốc tế Flanders. 20 tháng 9 năm 2018. Lưu trữ bản gốc 24 tháng 10 năm 2018. Truy cập 11 tháng 10 năm 2018.
  39. ^ 'Cold War' by Paweł Pawlikowski and 'High Life' by Claire Denis victorious at 45th Film Fest Gent”. Liên hoan phim quốc tế Flanders. 19 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc 24 tháng 10 năm 2018. Truy cập 19 tháng 10 năm 2018.
  40. ^ “Golden Globe Nominations: Complete List”. Variety. 6 tháng 12 năm 2018. Truy cập 7 tháng 12 năm 2018.
  41. ^ “Timothée Chalamet and Rachel Weisz to be Honored at the 22nd Annual 'Hollywood Film Awards' (Thông cáo báo chí). Hollywood, CA: Giải Điện ảnh Hollywood. 11 tháng 10 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2020. Chú thích có tham số trống không rõ: |8= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |archivedate=|archive-date= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  42. ^ Sheridan, Wade (16 tháng 10 năm 2018). “Hollywood Film Awards to recognize cast of 'Crazy Rich Asians'. United Press International. Lưu trữ bản gốc 26 tháng 10 năm 2018. Truy cập 16 tháng 10 năm 2018.
  43. ^ “2018 San Diego Film Critics Society Award Winners”. San Diego Film Critics Society (bằng tiếng Anh). 10 tháng 12 năm 2018. Bản gốc lưu trữ 11 tháng 12 năm 2018. Truy cập 11 tháng 12 năm 2018. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  44. ^ “Louis Garrel, Liu Jie, Brillante Mendoza, Tuva Novotny, Peter Strickland and Felix Van Groeningen join the runners for the Golden Shell” (Thông cáo báo chí). Liên hoan phim quốc tế San Sebastián. 17 tháng 8 năm 2018. Lưu trữ bản gốc 19 tháng 8 năm 2018. Truy cập 17 tháng 8 năm 2018.
  45. ^ “Non-specialised competitive Festival. FIAPF A-list” (Thông cáo báo chí). Liên hoan phim quốc tế San Sebastián. 29 tháng 9 năm 2018. Lưu trữ bản gốc 17 tháng 10 năm 2018. Truy cập 17 tháng 10 năm 2018.
  46. ^ “2018 Nominees”. International Press Academy. 29 tháng 11 năm 2018. Bản gốc lưu trữ 29 tháng 11 năm 2018. Truy cập 29 tháng 11 năm 2018. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  47. ^ Hipes, Patrick (12 tháng 12 năm 2018). “SAG Awards Nominations: 'A Star Is Born', 'Mrs. Maisel', 'Ozark' Lead Way – The Full List”. Deadline Hollywood. Truy cập 12 tháng 12 năm 2018.
  48. ^ “Toronto International Film Festival Reveals First Gala And Special Presentation Titles For 2018” (PDF) (Thông cáo báo chí). Toronto: Liên hoan phim quốc tế Toronto. 24 tháng 7 năm 2018. Lưu trữ (PDF) bản gốc 5 tháng 10 năm 2018. Truy cập 17 tháng 8 năm 2018.
  49. ^ “Toronto International Film Festival Announces 2018 Award Winners” (PDF) (Thông cáo báo chí). Toronto: Liên hoan phim quốc tế Toronto. 16 tháng 9 năm 2018. Lưu trữ (PDF) bản gốc 17 tháng 10 năm 2018. Truy cập 17 tháng 10 năm 2018.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]