Cá sơn bầu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cá sơn bầu
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Nhánh Actinopteri
Phân lớp (subclass)Neopterygii
Phân thứ lớp (infraclass)Teleostei
Nhánh Osteoglossocephalai
Nhánh Clupeocephala
Nhánh Euteleosteomorpha
Nhánh Neoteleostei
Nhánh Eurypterygia
Nhánh Ctenosquamata
Nhánh Acanthomorphata
Nhánh Euacanthomorphacea
Nhánh Percomorphaceae
Nhánh Carangimorpharia
Nhánh Ovalentaria
Họ (familia)Ambassidae
Chi (genus)Parambassis
Loài (species)P. wolffii
Danh pháp hai phần
Parambassis wolffii
(Bleeker, 1850)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Ambassis wolffii Bleeker, 1850
  • Acanthoperca wolffii (Bleeker, 1850)
  • Chanda wolffii (Bleeker, 1850)
  • Ambassis wolffi Bleeker, 1850
  • Chanda wolffi (Bleeker, 1850)
  • Chanda wolfi (Bleeker, 1850)
  • Chanda wolfii (Bleeker, 1850)
  • Parambassis wolffi (Bleeker, 1850)
  • Ambassis robustus Günther, 1859
  • Ambassis boulengeri Volz, 1903
  • Ambassis thomassi (không Day, 1870)

Cá sơn bầu (Danh pháp khoa học: Parambassis wolffii) là một loài cá trong họ Ambassidae[2] Phân bố rời rạc tại Đông Nam Á đại lục và đảo: Trong lưu vực các sông Chao Phraya và Mekong (dưới thác Khone); các đảo Sumatra và Borneo. Như thế, nó là loài bản địa của Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Thái Lan và miền nam Việt Nam.[1]

Tên loài là để vinh danh bạn của Bleeker là bác sĩ quân y Wolff.[3]

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Thân cá cao, mình dẹp, cuốn đuôi thon dài, đầu chúng lớn vừa, mõm ngắn, miệng trên, xiên, rạch miệng kéo dài đến viền trước mắt, chúng có một hàng răng nhỏ nhọn trên mỗi hàm, mắt to tròn, nằm lệch về nữa trên của đầu, khoảng cách 2 mắt cong lồi, xương trên lộ rõ ra nhỏ hơn đường kính mắt. Chiều dài tối đa 20 xentimét (7,9 in), nhưng thường gặp chỉ 9,4 xentimét (3,7 in).[2]

Toàn thân màu trắng trong, hơi ửng hồng, vây lưng, vây ngực và vây bụng có màu trăng trong. Vây lưng nhọn, gai thứ hai to và cao nhất, phía trước vây lưng có một gai cứng không cử động được, phần ngọn hướng ra phía trước. Vẩy tròn, lớn vừa, phủ khắp thân, má và nắp mang. Thức ăn của chúng là côn trùng, động vật giáp xác và cá nhỏ.[2]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Vidthayanon, C.; Ng, H.H. (2020). Parambassis wolffii. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2020: e.T181174A91305632. doi:10.2305/IUCN.UK.2020-2.RLTS.T181174A91305632.en. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Parambassis wolffii trên FishBase. Phiên bản tháng 8 năm 2019.
  3. ^ Christopher Scharpf & Kenneth J. Lazara (ngày 29 tháng 3 năm 2018). “Subseries Ovalentaria: Incertae sedis. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Christopher Scharpf & Kenneth J. Lazara. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2019.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]