Constantinos Panagi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Constantinos Panagi
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Constantinos Panagi
Ngày sinh 8 tháng 10, 1994 (29 tuổi)
Nơi sinh Nicosia, Síp
Chiều cao 1,88 m (6 ft 2 in)
Vị trí Thủ môn
Thông tin đội
Đội hiện nay
Omonia
Số áo 1
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
2005-2010 Olympiakos Nicosia
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2010–2014 Olympiakos Nicosia 27 (0)
2014– Omonia 85 (0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2010 U-17 Síp 3 (0)
2011–2013 U-19 Síp 12 (0)
2013–2016 U-21 Síp 7 (0)
2016– Síp 27 (0)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 4 tháng 5 năm 2023
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 28 tháng 3 năm 2023

Constantinos Panagi (tiếng Hy Lạp: Κωνσταντίνος Παναγή, sinh ngày 8 tháng 10 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Síp hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Omonia tại Giải bóng đá hạng nhất Síp.

Sự nghiệp thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]

Olympiakos Nicosia[sửa | sửa mã nguồn]

Panagi là sản phẩm của lò đào tạo Olympiakos Nicosia và được đôn lên đội 1 bởi huấn luyện viên Pambos Christodoulou vào năm 2010. Trong mùa giải 2013-2014, anh là sự lựa chọn số 1 trong khung gỗ của đội bóng, ra sân 25 trận tại Giải bóng đá hạng nhì quốc gia Síp.[1]

Omonia[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 20 tháng 5 năm 2014, anh chuyển tới câu lạc bộ cùng thành phố, Omonia.[2] Anh ra mắt đội 1 vào ngày 18 tháng 4 trong trận hòa với Apollon, nơi anh đã gây được ấn tượng và kể từ đó, anh luôn được ra sân thường xuyên cho Omonia. Trận ra mắt châu Âu của anh diễn ra vào ngày 9 tháng 6 trong chiến thắng 2-0 trước Dinamo Batumi. Anh đã có 85 lần ra sân tại giải quốc gia cho Omonia kể từ khi gia nhập.

Sự nghiệp quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Panagi đã thi đấu ở các cấp độ trẻ của Síp, như U-17, U-19U-21.[3]

Anh ra mắt quốc tế cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Síp vào ngày 24 tháng 3 năm 2016, trong trận thua 0-1 trước Ukraina.[4]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 12 tháng 7 năm 2020, anh kết hôn với một vũ công kiêm biên đạo múa, Andrea Nikolaou[5] và có một cô con gái tên là Floriana (sinh ngày 7 tháng 9 năm 2020).[6]

Thống kê sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến 28 tháng 5 năm 2023
Câu lạc bộ Mùa giải Giải đấu Cúp Châu lục Khác Tổng cộng
Hạng Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Olympiakos Nicosia 2010–11 Giải bóng đá hạng nhất Síp 2 0 0 0 2 0
2011–12 1 0 1 0 1 0
2012–13 1 0 0 0 1 0
2013–14 Giải bóng đá hạng nhì quốc gia Síp 23 0 1 0 24 0
Tổng cộng 27 0 2 0 29 0
Omonia 2014–15 Giải bóng đá hạng nhất Síp 7 0 2 0 0 0 9 0
2015–16 31 0 0 0 5 0 36 0
2016–17 29 0 0 0 4 0 33 0
2017–18 5 0 0 0 5 0
2018–19 5 0 1 0 6 0
2019–20 0 0 0 0 0 0
2020–21 3 0 0 0 0 0 3 0
2021–22 2 0 1 0 0 0 3 0
2022–23 3 0 0 0 0 0 3 0
Tổng cộng 85 0 4 0 9 0 0 0 98 0
Tổng cộng sự nghiệp 112 0 6 0 9 0 0 0 127 0

Quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến 28 tháng 3 năm 2023.[7]
Síp
Năm Trận Bàn thắng
2016 5 0
2017 7 0
2018 5 0
2019 5 0
2021 1 0
2022 3 0
2023 1 0
Tổng cộng 27 0

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Omonia

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “ΟΛΥΜΠΙΑΚΟΣ ΛΕΥΚΩΣΙΑΣ - ΚΩΝΣΤΑΝΤΙΝΟΣ ΠΑΝΑΓΗ”. cfa.com.cy. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2014.
  2. ^ Η ΟΜΟΝΟΙΑ ανακοινώνει την απόκτηση του Κωνσταντίνου Παναγή (bằng tiếng Greek). omonoia.com.cy. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2014.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  3. ^ “National team career”. www.transfermarkt.com. Chú thích có tham số trống không rõ: |ημερομηνία= (trợ giúp)
  4. ^ "Νιώθεις δέος και περηφάνια όταν παίζεις στην Εθνική". www.kerkida.net. Chú thích có tham số trống không rõ: |ημερομηνία= (trợ giúp)
  5. ^ “Παντρεύτηκαν ο Κωσταντίνος Παναγή και η Άντρεα Νικολάου!”. ΡΕΠΟΡΤΕΡ. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2021.
  6. ^ “Άντρεα Νικολάου και Κωνσταντίνος Παναγή: Έγιναν γονείς! (pic)”. ειδήσεις σε Κύπρος. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2021.
  7. ^ “Panagi, Konstantinos”. National Football Teams. Benjamin Strack-Zimmerman. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]