Hịch tướng sĩ
Dụ chư tì tướng hịch văn | |
---|---|
Hịch | |
![]() | |
Thông tin tác phẩm | |
Tên gốc | 諭諸裨將檄文 |
Tác giả | Trần Quốc Tuấn |
Thời gian sáng tác | 1284 |
Triều đại sáng tác | Nhà Trần |
Quốc gia | Việt Nam |
Ngôn ngữ | Hán văn |
Thể loại | Hịch |
Wikisource | Hịch tướng sĩ |
Dụ chư tì tướng hịch văn (諭諸裨將檄文) là bài hịch viết bằng văn ngôn của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn viết cuối thế kỷ 13 trước cuộc chiến tranh Mông Nguyên–Đại Việt lần 2.
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Tháng 12 năm Giáp Thân 1284, hiệu Thiệu Bảo năm thứ 6, đời Trần Nhân Tông, đại binh Thoát Hoan tiến đánh Chi Lăng, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thất thế đưa quân chạy về Vạn Kiếp. Thượng hoàng Trần Thánh Tông thấy thế giặc mạnh, cho mời Hưng Đạo Vương về Hải Dương mà phán rằng:
- "Thế giặc to như vậy, mà chống với chúng thì dân chúng bị tàn sát, nhà cửa bị phá hại, hay là trẫm sẽ chịu hàng để cứu muôn dân?"
Hưng Đạo Vương tâu:
- "Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng Tôn miếu Xã tắc thì sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi đã, rồi sau hãy hàng!"
Vua Trần Nhân Tông nghe thế yên lòng. Hưng Đạo Vương trở về Vạn Kiếp hiệu triệu 30 vạn quân Nam, và thảo bài Dụ chư tì tướng hịch văn để khuyên răn tướng sĩ, đại ý khuyên binh sĩ học tập và rèn luyện võ nghệ, khuyên các tướng học tập trận pháp theo sách Binh thư yếu lược, chuẩn bị cho cuộc chiến tranh Mông Nguyên-Đại Việt lần 2.
Nội dung[sửa | sửa mã nguồn]
余常聞之 紀信以身代死而脫高帝 由于以背受戈而蔽招王 蓣讓吞炭而復主讎 申蒯断臂而赴國難 敬德一小生也身翼太宗而得免世充之圍 杲卿一遠臣也口罵禄山而不從逆賊之計 自古忠臣義士以身死國何代無之 設使數子區區為兒女子之態 徒死牖下烏能名垂竹白 與天地相為不朽哉
汝等 世為將種不曉文義 其聞其說疑信相半 古先之事姑置勿論 今余以宋韃之事言之 王公堅何人也 其裨將阮文立又何人也 以釣魚鎖鎖斗大之城 當蒙哥堂堂百萬之鋒 使宋之生靈至今受賜 骨待兀郎何人也 其裨將赤脩思又何人也 冒瘴厲於萬里之途 獗南詔於數旬之頃 使韃之君長至今留名 況余與汝等生於擾攘之秋 長於艱難之勢 竊見偽使往來道途旁午 掉鴞烏之寸舌而陵辱朝廷 委犬羊之尺軀而倨傲宰輔 托忽必列之令而索玉帛以事無已之誅求 假雲南王之號而揫金銀以竭有限之傥庫 譬猶以肉投餒虎寧能免遺後患也哉
余常 臨餐忘食中夜撫枕 涕泗交痍心腹如搗 常以未能食肉寢皮絮肝飲血為恨也 雖 余之百身高於草野 余之千屍裹於馬革 亦願為之
汝等 久居門下掌握兵權 無衣者則衣之以衣 無食者則食之以食 官卑者則遷其爵 祿薄者則給其俸 水行給舟陸行給馬 委之以兵則生死同其所為 進之在寢則笑語同其所樂 其是 公堅之為偏裨兀郎之為副貳亦未下爾
汝等 坐視主辱曾不為憂 身當國恥曾不為愧 為邦國之將侍立夷宿而無忿心 聽太常之樂宴饗偽使而無怒色 或鬥雞以為樂或賭博以為娛 或事田園以養其家 或戀妻子以私於己 修生產之業而忘軍國之務 恣田獵之遊而怠攻守之習 或甘美酒或嗜淫聲 脱有蒙韃之寇來 雄雞之距不足以穿虜甲 賭博之術不足以施軍謀 田園之富不足以贖千金之軀 妻拏之累不足以充軍國之用 生產之多不足以購虜首 獵犬之力不足以驅賊眾 美酒不足以沈虜軍 淫聲不足以聾虜耳 當此之時我家臣主就縛甚可痛哉 不唯余之采邑被削 而汝等之俸祿亦為他人之所有 不唯余之家小被驅 而汝等之妻拏亦為他人之所虜 不唯余之祖宗社稷為他人之所踐侵 而汝等之父母墳墓亦為他人之所發掘 不唯余之今生受辱雖百世之下臭名難洗惡謚長存 而汝等之家清亦不免名為敗將矣 當此之時汝等雖欲肆其娛樂 得乎
今余明告汝等 當以措火積薪為危 當以懲羹吹虀為戒 訓練士卒習爾弓矢 使 人人逄蒙家家后羿 購必烈之頭於闕下 朽雲南之肉於杲街 不唯余之采邑永為青氈 而汝等之俸祿亦終身之受賜 不唯余之家小安床褥 而汝等之妻拏亦百年之佳老 不唯余之宗廟萬世享祀 而汝等之祖父亦春秋之血食 不唯余之今生得志 而汝等百世之下芳名不朽 不唯余之美謚永垂 而汝等之姓名亦遺芳於青史矣 當此之時汝等雖欲不為娛樂 得乎
今余歷選諸家兵法為一書名曰兵書要略 汝等 或能專習是書受余教誨是夙世之臣主也 或暴棄是書違余教誨是夙世之仇讎也
何則 蒙韃乃不共戴天之讎 汝等記恬然不以雪恥為念不以除凶為心 而又不教士卒是倒戈迎降空拳受敵 使平虜之後萬世遺羞 上有何面目立於天地覆載之間耶
故欲汝等明知余心因筆以檄云
Dư thường văn chi: Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế; Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương. Dự Nhượng thốn thán nhi phục chủ thù; Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn. Kính Đức nhất tiểu sinh dã, thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung chi vi; Cảo Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất tòng nghịch tặc chi kế. Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô chi? Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi nữ tử chi thái, Đồ tử dũ hạ, ô năng danh thuỳ trúc bạch, Dữ thiên địa tương vi bất hủ tai!
Nhữ đẳng Thế vi tướng chủng, bất hiểu văn nghĩa, Kỳ văn kỳ thuyết, nghi tín tương bán. Cổ tiên chi sự cô trí vật luận. Kim dư dĩ Tống, Thát chi sự ngôn chi: Vương Công Kiên hà nhân dã? Kỳ tỳ tướng Nguyễn Văn Lập hựu hà nhân dã? Dĩ Điếu Ngư toả toả đẩu đại chi thành, Đương Mông Kha đường đường bách vạn chi phong, Sử Tống chi sinh linh chí kim thụ tứ! Cốt Đãi Ngột Lang hà nhân dã? Kỳ tỳ tướng Xích Tu Tư hựu hà nhân dã? Mạo chướng lệ ư vạn lý chi đồ, Quệ Nam Chiếu ư sổ tuần chi khoảnh, Sử Thát chi quân trưởng chí kim lưu danh! Huống dư dữ nhữ đẳng, Sinh ư nhiễu nhương chi thu; Trưởng ư gian nan chi thế. Thiết kiến nguỵ sứ vãng lai, đạo đồ bàng ngọ. Trạo hào ô chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình; Uỷ khuyển dương chi xích khu nhi cứ ngạo tể phụ. Thác Hốt Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru cầu; Giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi khu kim ngân, dĩ kiệt hữu hạn chi thảng hố. Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn di hậu hoạn dã tai?
Dư thường Lâm xan vong thực, Trung dạ phủ chẩm, Thế tứ giao di, Tâm phúc như đảo. Thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã. Tuy Dư chi bách thân, cao ư thảo dã; Dư chi thiên thi, khoả ư mã cách, Diệc nguyện vi chi.
Nhữ đẳng Cửu cư môn hạ, Chưởng ác binh quyền. Vô y giả tắc ý chi dĩ y; Vô thực giả tắc tự chi dĩ thực. Quan ti giả tắc thiên kỳ tước; Lộc bạc giả tắc cấp kỳ bổng. Thuỷ hành cấp chu; Lục hành cấp mã. Uỷ chi dĩ binh, tắc sinh tử đồng kỳ sở vi; Tiến chi tại tẩm, tắc tiếu ngữ đồng kỳ sở lạc. Kỳ thị Công Kiên chi vi thiên tì, Ngột Lang chi vi phó nhị, Diệc vị hạ nhĩ.
Nhữ đẳng Tọa thị chủ nhục, tằng bất vi ưu; Thân đương quốc sỉ, tằng bất vi quý. Vi bang quốc chi tướng, thị lập di tú nhi vô phẫn tâm; Thính thái thường chi nhạc, yến hưởng nguỵ sứ nhi vô nộ sắc. Hoặc đấu kê dĩ vi lạc; Hoặc đổ bác dĩ vi ngu. Hoặc sự điền viên dĩ dưỡng kỳ gia; Hoặc luyến thê tử dĩ tư ư kỷ. Tu sinh sản chi nghiệp, nhi vong quân quốc chi vụ; Tứ điền liệp chi du, nhi đãi công thủ chi tập. Hoặc cam mĩ tửu; Hoặc thị dâm thanh. Thoát hữu Mông Thát chi khấu lai, Hùng kê chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp; Đổ bác chi thuật, bất túc dĩ thi quân mưu. Ðiền viên chi phú, bất túc dĩ thục thiên kim chi khu; Thê noa chi luỵ, bất túc dĩ sung quân quốc chi dụng. Sinh sản chi đa, bất túc dĩ cấu lỗ thủ; Liệp khuyển chi lực, bất túc dĩ khu tặc chúng. Mỹ tửu bất túc dĩ trấm lỗ quân; Dâm thanh bất túc dĩ lung lỗ nhĩ. Ðương thử chi thời, Ngã gia thần chủ tựu phọc, Thậm khả thống tai! Bất duy dư chi thái ấp bị tước, Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc vi tha nhân chi sở hữu; Bất duy dư chi gia tiểu bị khu, Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc vi tha nhân chi sở lỗ; Bất duy dư chi tổ tông xã tắc, vi tha nhân chi sở tiễn xâm, Nhi nhữ đẳng chi phụ mẫu phần mộ, diệc vi tha nhân chi sở phát quật; Bất duy dư chi kim sinh thụ nhục, tuy bách thế chi hạ, xú danh nan tẩy, ác thuỵ trường tồn, Nhi nhữ đẳng chi gia thanh, diệc bất miễn danh vi bại tướng hĩ! Ðương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục tứ kỳ ngu lạc, Đắc hồ?
Kim dư minh cáo nhữ đẳng, Đương dĩ thố hoả tích tân vi nguy; Đương dĩ trừng canh xuy tê vi giới. Huấn luyện sĩ tốt; Tập nhĩ cung thỉ. Sử Nhân nhân Bàng Mông; Gia gia Hậu Nghệ. Cưu Tất Liệt chi đầu ư Khuyết hạ; Hủ Vân Nam chi nhục ư Cảo nhai. Bất duy dư chi thái ấp vĩnh vi thanh chiên, Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc chung thân chi thụ tứ; Bất duy dư chi gia tiểu đắc an sàng nhục, Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc bách niên chi giai lão; Bất duy dư chi tông miếu vạn thế hưởng tự, Nhi nhữ đẳng chi tổ phụ diệc xuân thu chi huyết thực; Bất duy dư chi kim sinh đắc chí, Nhi nhữ đẳng bách thế chi hạ, phương danh bất hủ; Bất duy dư chi mỹ thuỵ vĩnh thuỳ, Nhi nhữ đẳng chi tính danh diệc di phương ư thanh sử hĩ. Ðương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục bất vi ngu lạc, Đắc hồ!
Kim dư lịch tuyển chư gia binh pháp vi nhất thư, danh viết Binh thư yếu lược. Nhữ đẳng Hoặc năng chuyên tập thị thư, thụ dư giáo hối, thị túc thế chi thần chủ dã; Hoặc bạo khí thị thư, vi dư giáo hối, thị túc thế chi cừu thù dã.
Hà tắc? Mông Thát nãi bất cộng đái thiên chi thù, Nhữ đẳng ký điềm nhiên, bất dĩ tuyết sỉ vi niệm, bất dĩ trừ hung vi tâm, Nhi hựu bất giáo sĩ tốt, thị đảo qua nghênh hàng, không quyền thụ địch; Sử bình lỗ chi hậu, vạn thế di tu, Thượng hữu hà diện mục lập ư thiên địa phú tái chi gian da?
Cố dục nhữ đẳng minh tri dư tâm, Nhân bút dĩ hịch vân.
Ta thường nghe Kỷ Tín[Chú thích 1] đem mình chết thay cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu[Chú thích 2] chìa lưng chịu giáo che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng[Chú thích 3] nuốt than báo thù cho chủ; Thân Khoái[Chú thích 4] chặt tay cứu nạn cho nước; Kính Đức[Chú thích 5], một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung; Cảo Khanh[Chú thích 6], một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa, các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh cùng sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được!
Các ngươi con nhà võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi những chuyện xa ta không nói đến nữa. Nay ta chỉ kể chuyện Tống, Nguyên mới đây.
Vương Công Kiên[Chú thích 7] là người thế nào? tì tướng của ông là Nguyễn Văn Lập lại là người thế nào? Mà giữ thành Điếu Ngư[Chú thích 8] nhỏ như cái đấu, đường đường chống với quân Mông Kha đông đến hàng trăm vạn, khiến cho nhân dân đời Tống đến nay còn đội ơn sâu? Cốt Đãi Ngột Lang[Chú thích 9] là người thế nào? Tì tướng của ông là Xích Tu Tư[Chú thích 10] lại là người thế nào? mà xông vào chỗ lam chướng xa xôi nghìn trùng, đánh bại được quân Nam Chiếu trong vài tuần, khiến cho quân tướng đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt?
Huống chi ta cùng các ngươi sinh ra phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường. Uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt[Chú thích 11] mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng; giả hiệu Vân Nam Vương[Chú thích 12] mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi tai vạ về sau?
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa[Chú thích 13] ta cũng vui lòng. Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng, đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cuời. Cách đối đãi so với Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang ngày trước cũng chẳng kém gì!
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc Thái thường để đãi yến[Chú thích 14] nguỵ sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú ruộng vườn, hoặc quyến luyến vợ con; hoặc lo làm giàu mà quên việc nước; hoặc ham săn bắn mà quên việc binh; hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát.
Nếu có giặc Mông Thát tràn sang, thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm, vườn nhiều, tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu, việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều khôn mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ khôn đuổi được quân thù; chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!
Chẳng những thái ấp[Chú thích 15] của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng bị mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui vẻ phỏng có được không?
Nay ta bảo thật các ngươi: Nên nhớ câu “đặt mồi vào dưới đống củi”[Chú thích 16] là nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội”[Chú thích 17] làm răn sợ. Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên; khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ[Chú thích 18], có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết[Chú thích 19], làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai[Chú thích 20]. Như vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng lộc các ngươi cũng đời đời hưởng thụ; chẳng những gia quyến của ta được êm ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão; chẳng những tông miếu của ta được muôn đời tế lễ, mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm; chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà đến các ngươi trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền; chẳng những danh hiệu ta không bị mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu thơm. Lúc bấy giờ các người không muốn vui vẻ phỏng có được không?
Nay ta chọn binh pháp các nhà làm một quyển gọi là “Binh thư yếu lược”. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời dạy bảo của ta, thì mới phải đạo thần chủ[Chú thích 21]; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta, tức là kẻ nghịch thù.
Vì sao vậy? Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ; chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi sau đây sau khi giặc giã dẹp yên muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào mà đứng trong trời đất nữa? Ta viết bài hịch này để các ngươi biết bụng ta.
Phê bình[sửa | sửa mã nguồn]
Đương thời, tác phẩm được soạn với mục đích giáo huấn bọn gia thuộc trong thái ấp Hưng Đạo vương, có rất ít ảnh hưởng đối với bình diện xã hội, mãi về sau do được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư mới được hậu thế biết. Tuy nhiên, ở hậu kì hiện đại, tác phẩm được gắn với các trào lưu chủ nghĩa dân tộc để được tôn sùng làm thiên cổ hùng văn. Thậm chí, nhiều dị bản phổ biến hơn cổ bản còn tìm cách dập xóa câu chữ gốc sao cho hợp ý người hiện đại.
Theo các văn bản Hán Nôm hiện tồn, đối với những quốc gia hoặc bộ lạc lân cận, quân chủ Việt lại thường xưng Trung Hoa, Trung Quốc, Trung Châu, Trung Hạ, Hoa Hạ, tự coi Hán nhân, nhằm để ví vùng trực tiếp cai trị là lõi Hán quyển ở phương Nam. Tuy vậy, khi các văn bản này được phiên dịch hoặc ấn hành theo phương thức hiện đại, đa số bị cắt bỏ hoặc xuyên tạc cũng vì lí do kì thị xen lẫn mặc cảm. Điển hình trứ tác Dụ chư tì tướng hịch văn trong cổ bản có câu "Vi trung quốc chi tướng, thị lập di tú nhi vô phẫn tâm" (為中國之將侍立夷宿而無忿心), chữ "trung" (中) bị sửa thành "bang" (邦). Về mặt kết cấu, trứ tác tiếp thụ ảnh hưởng ý thức hệ hoa di, coi triều Nguyên là man tộc đã xâm phạm cõi Hoa Hạ thông qua việc tận diệt hai triều đình Đại Kim và Đại Tống, tức những đại diện chính thống của văn minh Hán quyển. Vì thế, An Nam và những phần còn lại của văn hiến Hoa Hạ phải lĩnh trọng trách giữ lấy lẽ chính thống và lề thói tổ tông. Bản thân tác giả phiếm xưng dư (余) là lối nói rất long trọng, vốn chỉ dành cho bậc quyền quý, do đó nêu bật được sức nặng của tác phẩm đối với kẻ nghe.
Ngô Tất Tố viết rằng bài Dụ chư tì tướng hịch văn cho thấy, không những Hưng Đạo Vương là võ tướng mà ông còn có tài học vấn, đọc nhiều sách và thông hiểu nhiều điển tích cổ kim. Trong Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim ghi rằng binh sĩ nghe lời hịch nức lòng, lấy mực xăm vào tay hai chữ: "Sát Thát" (nghĩa giết quân Mông Cổ), và hết lòng chiến đấu chống giặc.
“ | Theo quy luật sáng tạo văn hóa, lại trên tinh thần tự chủ, chủ động xây dựng quốc gia theo mô hình Trung Hoa, triều đình Việt Nam trong hơn một ngàn năm phong kiến quân chủ dù nhiều lần mô phỏng chế độ áo mũ, lễ nhạc, khoa cử của các triều đại Trung Quốc, vẫn luôn tạo nên những nét biến dị độc đáo, làm tôn thêm vẻ uy nghi, sang trọng của vua quan nước Việt. Bắt nguồn từ ý thức tự chủ, chống chọi đến cùng trước những chính sách cai trị bạo tàn, người Việt vùng đồng bằng sông Hồng có thể coi là một trong những cộng đồng dân cư “làm loạn” nhiều nhất trong thời còn nội thuộc ách thống trị của Trung Quốc. Bất kể quan niệm của người phương Bắc cho rằng, trời chỉ có một thiên tử, thiên hạ chỉ có một hoàng đế, song không ít thủ lĩnh nước Việt mỗi khi giành được độc lập, giành quyền làm chủ cõi đất phương Nam đều xưng đế, dù khi chạm trán thiên triều vẫn nhún mình xưng là bề tôi : Lý Bí xưng đế năm 544, Mai Thúc Loan xưng đế năm 713, và năm 968, Đinh Bộ Lĩnh tự xưng Đại Thắng Minh hoàng đế… Phan Huy Chú sở dĩ coi nước Việt "từ thời Đinh Lê mở nước đối chọi với Trung Hoa", bởi tính từ thời điểm này trở đi, vị thế của một đế quốc phong kiến độc lập đã được khẳng định, tư tưởng bá chủ trời Nam đã hết sức sáng rõ như chính lời chúc của Nam Việt Vương Đinh Liễn nhắn gửi trên cột kinh tràng : “Chúc Đại Thắng Minh hoàng đế mãi làm bá chủ trời Nam, giữ yên ngôi báu…”, “mãi trấn vững trời Nam, thứ là khuông phù cơ nghiệp đế vương”. Việc ấy cũng như lời nhận xét của quan Trung Quốc thời Minh là Lý Văn Phượng : “Nhật Tôn tự làm đế nước ấy… lấy quốc hiệu Đại Việt. Từ ấy về sau, con cháu họ Lý cho tới họ Trần, Lê, Mạc đều giẫm theo vết cũ, tiếm xưng đế hiệu”. Việc vua nước Việt xưng đế, đồng nghĩa với việc ông vua Việt được hưởng mọi đặc quyền, nghi lễ dành cho thiên tử, không kém vua Trung Hoa. Thái độ của triều đình phương Bắc đối với việc lấn vượt, “không kiêng dè” của triều đình Đại Việt là nhiều khi đành phải khuất mắt trông coi như ghi nhận của quan nhà Tống, Trịnh Tủng : “Họ Lý từ sau Công Uẩn truyền đến thời Hạo Sảm ngày nay, thảy tám đời. Tên các đời là Nhật, là Càn, là Dương, là Thiên, là Long đều có ý lấn vượt bề trên. Triều đình coi nước ấy xa nơi góc bể, không thèm lần lữa so đo” ; cũng có khi lại quyết liệt với mưu đồ san bằng nước Việt, mà đỉnh điểm là cuộc xâm lược của nhà Minh trong những năm đầu thế kỷ XV. Việc “không tuân theo chính sóc của triều đình (lịch nhà Minh), tiếm vượt đổi quốc hiệu thành Đại Ngu, xưng láo tôn hiệu, đổi niên hiệu Nguyên Thánh”, một trong hai mươi tội ác nhà Minh gán cho cha con họ Hồ, trên thực tế cũng chính là quán lệ của triều đình Đại Việt. Nhưng sau bao công sức đổ vào công cuộc giáo hóa hòng răn dạy An Nam phải ngoan ngoãn nghe lời, ý đồ của nhà Minh vẫn hoàn toàn sụp đổ, bởi với chiến thắng của Lê Lợi hai mươi năm sau, “đất cát lại là đất cát An Nam, nhân dân lại là nhân dân An Nam, phong tục áo mũ lại được đúng như xưa, nền nếp mối giềng lại được sáng như cũ”, đặc biệt, theo Lý Văn Phượng, Lê Lợi đã “không nghĩ đến việc thành thật hối lỗi, bề ngoài thần phục, nhưng bên trong lại rắp tâm lấn vượt, tiếm hiệu, cải nguyên để đối chọi ngang hàng với Trung Quốc”. Chính vì vậy, cũng dễ hiểu khi vua chúa Việt Nam luôn muốn mình ngang hàng, thậm chí vượt trội so với các vị vua tài đức của Trung Hoa, mà không phải vua chúa của một quốc gia nào khác. Sự so sánh này khi là sự so bì về tài năng như Lý Chiêu Hoàng khen chồng, Trần Cảnh : “Văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được”, hay sử thần Vũ Quỳnh khen vua Lê Thánh Tông : “Quy mô xếp đặt, công nghiệp trung hưng, có thể sánh vai với Thiếu Khang nhà Hạ, nối gót được Tuyên Vương nhà Chu, mà khinh hẳn Quang Vũ nhà Hán, Hiến Tông nhà Đường là hạng dưới vậy” ; khi là sự so sánh về đức độ như vua Trần Dụ Tông khen vua Trần Thái Tông : “Sáng nghiệp Việt - Đường, hai Thái Tông / Kia xưng Trinh Quán, ta Nguyên Phong / Kiến Thành bị giết An Sinh sống / Miếu hiệu như nhau, đức chẳng đồng” ; cũng có khi chỉ đơn giản là sự so sánh về dáng vẻ của đôi tai, con mắt như trường hợp Thượng thư Nguyễn Công Bật ca ngợi vua Lý Nhân Tông : “Mắt trong mà đen trắng rõ ràng, khác con mắt hai ngươi Thuấn đế ; tai đẹp mà vành tai dài rộng, chê cái tai ba lỗ Hạ vương”… Việc so bì tài năng đức độ với vua chúa Trung Hoa trên thực tế đã không còn là việc “lưu hành nội bộ” trong triều đình Đại Việt. Triều Tiên vương triều thực lục cho biết, vào ngày mồng 1 tháng 5 năm Triều Tiên Thái Tông thứ 7 (tức 1407), quan Nội sứ nhà Minh là Trịnh Thăng, hành nhân Phùng Cẩn, mang tờ chiếu bình định An Nam đến Triều Tiên. Tại cung Kyeongbok (Cảnh Phúc), sứ thần tuyên chiếu, sai Jeong Gu (Trịnh Củ) dùng tiếng địa phương, Jo Jeong (Tào Chính) dùng tiếng Hán đọc chiếu. Tờ chiếu có đoạn viết : “Tự cho là thánh triết hơn Tam hoàng, đức cao hơn Ngũ đế ; coi Văn vương, Võ vương không đủ làm phép tắc, khinh Chu công, Khổng tử không đủ làm bậc thầy ; hủy báng Mạnh Tử là đạo nho (nhà nho ăn trộm), Trình Chu thạo cóp nhặt. Dối thánh dối trời, không ngôi không thứ. Tiếm quốc hiệu gọi là Đại Ngu, trộm kỷ nguyên gọi là Thiệu Thánh. Xưng là Lưỡng cung hoàng đế, dám dùng nghi lễ triều đình. Chẳng phải chỉ ngang tàng ở cõi xa, mà kỳ thực muốn chống chọi ngang hàng cùng Trung Quốc”. Về mặt lễ nghi trang phục, bởi vậy, cũng không thể thua kém. Do có sự nhận đồng về điển chương, văn hiến của Trung Quốc, trong suốt một thời gian dài, cũng giống như Triều Tiên, triều đình phong kiến Việt Nam đã coi thể chế, văn hiến Trung Hoa là nguồn tham khảo chính thống. Chế độ trang phục cung đình Việt Nam đã mô phỏng chế độ của Trung Quốc để có được sự uy nghiêm, chuẩn mực tương tự. Tuy nhiên, theo quy luật sáng tạo văn hóa, lại trên tinh thần tự chủ, chủ động xây dựng đất nước theo mô hình Trung Hoa, triều đình Việt Nam trong hơn một ngàn năm phong kiến quân chủ dù nhiều lần mô phỏng chế độ áo mũ, lễ nhạc, khoa cử của các triều đại Trung Quốc, vẫn luôn tạo nên những nét biến dị độc đáo, làm tôn thêm vẻ uy nghi, sang trọng của vua quan nước Việt. |
” |
— Vân Trai Trần Quang Đức, «Tư-tưởng đế-vương» |
“ | Trước thế kỷ XIX, khi chưa trở thành danh từ riêng đặc chỉ một chủng tộc hay một quốc gia cụ thể, các khái niệm “Hoa”, “Hạ”, “Trung quốc”, “Trung Hạ”, “Trung Châu”... xuất hiện trong kinh điển thời Xuân Thu (770 tr.CN - 476 tr.CN) được dùng để chỉ vùng đất, cũng có khi chỉ những người văn minh ở trung tâm, có lễ giáo, khu biệt với các sắc dân Man, Di, Nhung, Địch ở bốn phía xung quanh. "Chiến Quốc sách" (戰國策) giải thích : “Trung quốc là nơi bậc trí tuệ thông minh cư trú, nơi vạn vật tài nguyên hội tụ, nơi thánh hiền triển khai giáo hóa, nơi nhân nghĩa được ban bố thi hành, nơi thi thư, lễ nhạc được sử dụng, nơi tài nghệ kỳ tuyệt được triển thi, nơi phương xa đến quan ngưỡng, nơi man di phỏng noi theo”. Từ quan niệm “trung tâm văn minh”, Á thánh của đạo Nho, Mạnh Tử chủ trương “dụng Hạ biến di”, đem văn minh tiên tiến của trung nguyên truyền bá ra xung quanh như công cuộc khai hóa. Tuy nhiên, sau khi tiếp nhận một phần văn hóa Hán, hấp thu tư tưởng Xuân Thu, vua tôi các nước Việt, Triều, Nhật đều tự nhận mình là Trung Quốc, Trung Hạ, tức chủ thể của một nền văn minh có đầy đủ lễ giáo, văn hiến không thua kém các triều đại Hán Đường. Asami Keisai, học giả Nhật Bản thời trung đại từng bàn luận về khái niệm "Trung quốc" cho biết : “Nước tôi [Nhật Bản] biết đạo Xuân Thu thì nước tôi là chủ thể. Nếu coi nước tôi là chủ thể, thì thiên hạ đại nhất thống là đứng ở góc độ nước tôi nhìn sang các nước khác, đó cũng chính là tôn chỉ của Khổng Tử. Không nắm được điều này mà đọc sách Đường thì thành ra những kẻ sùng bái đọc sách Đường [phiếm chỉ sách vở Trung quốc], đứng từ góc độ nhà Đường trông sang để soi chiếu Nhật Bản, thì luôn xiểm nịnh nhà Đường và riêng dùng khái niệm di rợ để lý giải Nhật Bản, hoàn toàn đi ngược lại tôn chỉ Xuân Thu của Khổng Tử. Khổng Tử mà sinh ra ở Nhật Bản thì sẽ từ Nhật Bản lập ra tôn chỉ Xuân Thu. Hiểu như vậy mới là người giỏi học sách Xuân Thu. Nay đọc Xuân Thu mà gọi Nhật Bản là di rợ, thì không phải do sách Xuân Thu hại đến đạo Nho, mà do kẻ không giỏi đọc Xuân Thu hại sách Xuân Thu vậy”. Như vậy, Keisai quan niệm những người đã học theo kinh điển của Trung Quốc thì không thể bị coi là “man di”, và bản thân những quốc gia có lễ giáo tương tự các triều Hán Đường cũng đều có thể được coi là Hoa Hạ, là Trung Quốc. Hay có thể hiểu một cách đơn giản hơn như học giả người Mỹ, Alexander Barton Woodside về chính khái niệm “Trung quốc” được xử dụng tại Việt Nam vào thời Nguyễn : “Năm 1805, vua Gia Long coi Việt Nam là “vương quốc trung tâm” hay Trung quốc. Thuật ngữ tiếng Hán thông thường được dùng để chỉ Trung Hoa, nhưng trong tay người Việt, nó lại trở thành một khái niệm trừu tượng không có sự tham khảo địa lý nào. Nó biến đổi thành một cụm từ có khả năng được dùng để chỉ bất kỳ vương quốc nào được lập nên trên cơ sở những nguyên tắc kinh điển Trung Hoa, khi nhận thấy xung quanh mình bị bao bọc bởi những kẻ man di không được giáo hóa”. Lý giải quan niệm của vua tôi người Việt tự nhận đất Việt là quốc gia văn minh ở trung tâm mới có thể lý giải được việc vua tôi Việt Nam không ít lần sử dụng khái niệm Trung quốc, Trung Hạ, Khu Hạ, Hoa Hạ để chỉ nước mình. Tỉ như : "Toàn thư" (大越史記全書) viết : “Trước đây, Lý Giác trốn sang Chiêm Thành, nói tình hình hư thực của Trung quốc [1104]” ; “Đối với những người hào kiệt Trung quốc, chúng [nhà Minh] phần nhiều vờ trao cho quan tước rồi đem về an trí ở phương Bắc [1417]”; Tháng 8, năm 1426, vua Lê Thái Tổ ban dụ cho cả nước viết : “Giặc còn ở Trung quốc, dân chúng còn chưa yên”... "Thiền Tông khóa hư ngữ lục" (禪宗課虛語錄) của Trần Thái Tông khi bàn về sự quý báu của thân người có đoạn viết : “Người nay chẳng biết, lại quý vật mà rẻ thân, chẳng hay thân mình có ba điều khó gặp… Một là, trong lục đạo chỉ có người là quý… có kẻ bị đọa xuống đạo Địa ngục, A tu la, Ngạ quỷ, Súc sinh, không được làm người… Hai là, đã được sinh ra làm người nhưng lại có kẻ sinh ra ở nơi man di, tắm thì chung sông, nằm thì rọ chân, sang hèn ở lẫn, trai gái sống chung, chẳng đượm gió nhân, chẳng nhuần giáo hóa… Ba là, đã được sinh ra ở Trung quốc, nhưng sáu căn không đủ, bốn thể chẳng toàn, mù điếc ngọng câm… tuy ở trong Hoa Hạ cũng hệt như ở ngoài hoang dã. Nay đã làm người, được sinh ra ở Trung quốc, lại có đủ sáu căn, há chẳng quý lắm sao ?”. "Đại Việt Lam Sơn Dụ lăng bi" (大越藍山裕陵碑) soạn năm 1504, đặt tại lăng vua Lê Hiến Tông (di tích Lam Kinh) có đoạn viết : “Trung quốc vững mạnh, ngoại di khiếp hãi“. Tờ sớ Mạc Đăng Dung tâu lên vua Lê vào tháng 12 năm 1517 xin giết Lê Quảng Độ, đại ý nói : “Tam cương ngũ thường là rường cột chống đỡ trời đất, là trụ đá đặt yên sinh dân. Nước mà không có cương thường thì tuy là Trung Hạ cũng có khác nào di địch. Người mà không có cương thường thì tuy mặc xiêm áo, cũng có khác nào cầm thú” 21. Bức thư chúa Trịnh Tráng gửi cho Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan tại Batavia (nay là Jakarta) năm 1637, có đoạn viết : “Nay ta có ý mong quý quan tiết chế của quý quốc Ô Lan [Hà Lan] kết giao với ta. Trên danh nghĩa chân chính, hai nước đùm bọc thương yêu, mãi đến muôn đời. Vậy cắt cử hoặc hai ba tàu, hoặc hai trăm lính thiện xạ đến Trung quốc ta, lấy đó làm tin”. Phải công tâm nhìn nhận rằng, vua tôi nước Việt trong giai đoạn phong kiến tự chủ đã xây dựng đế chế theo mô thức Trung Hoa, lấy trật tự Hoa Di làm nền tảng. Mô thức này coi cõi đất hoàng đế ngự trị là trung tâm thiên hạ, tức Trung quốc, Trung Hạ, Hoa Hạ. Hoàng đế thi hành ơn đức, đồng thời bảo ban, dạy dỗ bốn cõi xung quanh, gọi là vương hóa, hoàng hóa. Các vùng biên viễn, man di ngưỡng mộ ơn đức của thiên triều phải thần phục và đến triều cống ; những kẻ chống đối, ương ngạnh phải bị thảo phạt. Việt Nam vừa nằm trong hệ thống những nước triều cống của triều đình Trung Hoa, vừa thiết lập riêng một hệ thống tông chủ - phiên thuộc đối với các vùng đất và quốc gia phương Nam. Tư tưởng này được thể hiện hết sức rõ rệt qua các tờ chiếu, hịch, văn khắc ghi công của vua tôi nước Việt trước hoặc sau khi thảo phạt các tộc người thiểu số và các nước phương Nam, như : Bài hịch đánh động Ma Sa của vua Lý Nhân Tông có đoạn viết : “Trẫm coi triệu họ trong bốn bể đều như con đỏ. Đến cõi xa cũng mến lòng nhân mà quy phụ, phương khác cũng mộ nghĩa mà lại chầu. Nay tên tù trưởng hèn nhà ngươi ngu xuẩn, phụ ước ông cha, quên việc tuế cống”. Thái úy Đỗ Anh Vũ nhà Lý nói : “Để bọn man di quấy Hạ là tội của thần… Nay cấm chỉ thói mọi, chắp tay mà chịu mặc hình ; trộm cắp dân ven, mất mật mà theo hoàng hóa”. "Ma Nhai kỷ công bi văn" (摩崖紀功碑文) của Nguyễn Trung Ngạn trên sườn núi Trầm Hương (Nghệ An) năm 1335 có đoạn viết : “Vào thời hoàng đế thứ sáu triều Trần nước Hoàng Việt, Thái thượng hoàng đế Chương Nghiêu Văn Triết được trời ban mệnh, giữ đất Trung Hạ, khắp trong bốn bể, đâu cũng thần phục, Ai Lao cỏn con, dám chống vương hóa. Năm Ất Hợi, mùa thu, đế thân chinh soái lĩnh sáu quân, đi tuần miền Tây, thế tử nước Chiêm Thành, Chân Lạp, Xiêm La cùng tù trưởng man di Đạo Thần, Quỳ Cầm… đều dâng phương vật, tranh nhau nghênh đón. Mùa đông, đế đóng quân ở cánh đồng Cự Đồn Mật châu, lệnh cho các tướng và quân lính man di tiến vào nước ấy”. Văn khắc trên vách đá vùng Tây Bắc "Thân chinh Phục Lễ châu Đèo Cát Hãn" (親征復泐州佶扞完) do vua Lê Thái Tổ ngự chế cũng có đoạn với đại ý tương tự : “Bọn di địch là mối họa ở vùng biên cương, từ xưa đã có. Bọn Hung Nô thời Hán, bọn Đột Quyết thời Đường, bọn man mọi Mường Lễ ở phía Tây nước Việt ta cũng vậy. Vừa rồi chính trị Trần Hồ suy vi, bọn phiên thần ngang nhiên cát cứ, Cát Hãn giữ nguyên thói cũ, ỷ địa thế hiểm trở không chịu hối cải. Nay ta đem quân tiến đánh, hai quân thủy bộ cùng tiến, cất một trận là dẹp yên. Nhân viết một bài thơ Đường luật, khắc lên trên đá, để răn những tên tù trưởng man di chống lại vương hóa đời sau”. Tờ chiếu đi đánh Ai Lao của vua Lê Thánh Tông tháng 7 năm 1479 cũng viết : “Bậc đế vương đời xưa chế ngự di địch, phục tùng thì cưu mang bằng đức, phản lại thì sấm sét ra oai… Trẫm nay nối công tổ tông, giữ cơ nghiệp lớn, ở đất Trung Hạ, vỗ yên ngoại di… Huống chi, đám dân chốn man rợ này, từ lâu nhiễm mùi hôi tanh của loài chó Lão Qua, muốn khôi phục cương thường cho tục mọi…”. Trong tờ chiếu đánh Bồn Man, ông còn viết : “Nước nhà ta tóm thâu bờ cõi, thống ngự Hoa Di”. Tư tưởng Hoa Di được đẩy lên cao độ tại Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản sau khi triều đình phong kiến Trung Hoa do người Hán trị vì bị thay thế bởi “người Hồ” phương Bắc, đặc biệt sau khi người Mãn làm chủ Trung Quốc, lập nên nhà Thanh. Lúc này, ba nước đều tự nhận là quốc gia trung tâm, chủ thể lưu giữ nền văn minh cổ phác và miệt thị gốc gác du mục vốn không có lễ giáo của tộc người Mãn Mông. Đó cũng chính là tư tưởng ẩn chứa trong câu phản vấn của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn trong "Dụ chư tì tướng hịch văn" (諭諸裨將檄文), sau khi ông kể cho tướng lĩnh những câu chuyện đầy nghĩa khí thời Xuân Thu : “Các ngươi là tướng của trung quốc, phụng sự tù trưởng di rợ mà không thấy căm phẫn ?” (為邦國之將侍立夷宿而無忿心). Về phía Triều Tiên, Tư gián Triệu Quýnh (Cho Kyeong) bày tỏ : “Nước ta xưa nay nổi danh thiên hạ bởi có lễ nghĩa, được gọi với tên Tiểu Trung Hoa, kế thừa liệt thánh, thờ nước lớn một lòng, cung kính cẩn thận, nay phụng sự giặc Hồ, trộm yên tạm bợ, kéo dài chốc lát, làm như vậy đối với tổ tiên thế nào, đối với thiên hạ thế nào, đối với hậu thế thế nào ?”. Còn Tùng Cung Quan Sơn (Matsumiya Kanzan), binh pháp gia Nhật Bản thì nói : “Trộm nghĩ, nước ta từ xưa văn hiến đã đủ đầy, tự xưng là Trung Châu, gọi nước kia [chỉ Trung Quốc] là Tây phiên. Sự phân biệt trong ngoài, thể chế rất là nghiêm ngặt” 31. Diễn biến đến thời Nguyễn, "Đại Nam thực lục" (大南實錄) cũng như không ít sách vở triều Nguyễn dứt khoát gọi người Việt là “Hán nhân”, “Hán dân”, gọi người Trung Quốc là “Thanh nhân”, mà “Thanh” như vua Minh Mệnh từng nói : “Tổ tiên là người Mãn... Mãn là di rợ”. Thậm chí, những người phương Tây như người Pháp, người Anh… cũng đều từng bị vua quan nhà Nguyễn gọi thẳng thừng là “Dương di”. Tư tưởng phân biệt Hoa Di, đúc kết lại có thể thấy rõ nhất qua sự việc Lang trung Lý Văn Phức sang Thanh, thấy người Thanh viết bốn chữ lớn “Việt di hội quán” lên vách tường, ông đã rất tức giận, trách mắng quan Quán Bạn, nét mặt và giọng nói đều rất dữ, không chịu vào quán, sau đó lệnh hành nhân xé nát chữ "di" đi rồi mới vào, đoạn viết "Biện di luận" (辯夷論) để trần bày. Đại lược nói : “An Nam vốn hậu duệ của Thánh đế Thần Nông, là Hoa, chẳng phải di vậy, đạo học noi theo Khổng Mạnh Trình Chu, pháp độ tuân theo Chu Hán Đường Tống, không vấn tết tóc, để vạt trái như người Di. Đến như vua Thuấn sinh ra ở Chư Phùng, Văn vương sinh ra ở Kỳ Châu, người đời còn chẳng dám coi vua Thuấn, Văn Vương là di, huống hồ dám coi ta là di ư ?”. Phát xuất từ tư tưởng Hoa Di, quy chế trang phục trong cung đình Việt Nam phần lớn được tham khảo từ điển chương, chế độ của triều đình Trung Quốc, một trong những thước đo văn minh đặt trong bối cảnh xã hội phong kiến bấy giờ. Kể từ năm 939, Ngô Quyền sau khi xưng vương đã lần đầu tiên cho mô phỏng quy chế áo mão của nhà Đường thể hiện qua việc lấy màu sắc trang phục làm tiêu chí phân biệt phẩm trật của bá quan. Tiếp đến, thời Tiền Lê tới thời Lý đều lần lượt mô phỏng quy chế áo mão của nhà Tống, đánh dấu bởi các sự kiện áp dụng chế độ Triều phục năm 1006 và chế độ Công phục năm 1059. Riêng với triều đình nhà Hồ, từ sau cải cách thời Trần Thuận Tông năm 1396 mà thực chất do Hồ Quý Ly thao túng, triều phục của văn võ bá quan lại quay về mô phỏng theo chế độ trang phục của nhà Hán. Các triều Lê, Nguyễn về sau chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ trang phục của nhà Minh, bắt nguồn từ cải cách trang phục thời vua Lê Thái Tông năm 1437, được đẩy mạnh vào khoảng những năm 1471 thời vua Lê Thánh Tông, và hoàn bị vào năm 1500 thời vua Lê Hiến Tông. Tuy nhiên, đối với với trang phục của các triều đại Nguyên, Thanh, vua chúa nước Việt thường tỏ ra bài bác, khinh thị. Như với trang phục của nhà Nguyên, vua Trần Minh Tông từng nói rõ : “Ngôn ngữ [chỉ ngôn ngữ Hán quan phương] không khác nhau nhiều, nhưng áo mũ không thể giống nhau được”. Nguyễn Trãi nhận xét và khuyến cáo : “Người Ngô lâu ngày nhiễm thói tục của người Nguyên, tóc xõa, răng trắng, áo ngắn mà tay áo dài, mũ xiêm lòe loẹt, lớp lớp như lá vậy... không nên noi theo để làm loạn quốc tục”. Còn trang phục của triều đình Mãn Thanh, năm 1696, sử thần nhà Lê cho biết : “Người Thanh làm chủ Trung Quốc, róc tóc, mặc áo ngắn, noi theo thói cũ Mãn Châu. Áo mũ lễ tục Tống Minh vì vậy mất sạch”. Bùi Văn Dị nhận định : “Triều Thanh hưởng thái bình lâu ngày [...] riêng chế độ áo mũ không đổi. Tục Mãn suy cho cùng thiếu trang nhã [...] Từ khi triều Thanh làm chủ Trung Quốc, bốn phương phải cạo tóc, đổi y phục. Hai trăm năm trở lại đây, tai mắt người ta đã quen cả [...] không còn nhận ra kiểu dáng Hoa Hạ ngày xưa nữa. Sứ nước ta tới Yên Kinh, đội mặc phẩm phục, có kẻ nhận ra trộm ngưỡng mộ Hoa phong. Nhưng bọn không có trí tuệ, phần nhiều túm tụm cười đùa, thấy mũ Phốc đầu, Võng cân, đai áo bèn chỉ trỏ cho là kiểu cách tuồng chèo. Tục rợ Hồ thay đổi con người ta đến mức phải ta thán như vậy đấy”. Tác giả của "Nam sử tư ký" (南史資記) đầu thời Nguyễn cũng chép : “Thanh Thế Tổ lên ngôi, đặt niên hiệu Thuận Trị, thống nhất thiên hạ, thay đổi y phục Trung Quốc... Nước Nam ta y phục vẫn như xưa. Sau này sứ nước ta đến Yên Kinh, phụ lão Trung Quốc thấy y phục của sứ ta đều rơi nước mắt”. Năm 1830, chính vua Minh Mệnh nói rõ : “Trẫm xem sách Hội điển của nước Thanh... áo mũ triều phục đều theo thói tục man di, không phải chế độ phục sức của cổ nhân, như thế lại càng sai trái, không thể làm khuôn phép”. Đối với trang phục dân gian, trong mắt sĩ phu người Việt, trang phục của người dân các nước phương Nam và các sắc dân thiểu số đều bị coi là quê kệch, thô lậu. Như Dương Văn An nhận xét vùng Tư Vinh (Huế) : “Có người nói tiếng Huế, mặc váy Chàm, thói ấy rất quê và thô bỉ”, trong khi dân vùng Ô châu [Quảng Trị] có cách ăn vận như Trung Hoa thì được coi là không có gì lạ thường. Ngô Thì Nhậm từng có lời thơ thể hiện niềm tự hào là bậc kỳ lão đất Việt, vận áo mão chỉnh tề, thắt dây thao, đeo ngọc bội, rất văn minh, rất “Hoa”. Ông viết : "Mở mang có trước sau, Đâu riêng Trung Quốc có... May sinh ở nước Nam, Đường hoàng thân áo mão, Chớ bảo ta chẳng Hoa, Việt Thường có kỳ lão". Đặc biệt, khác với các triều đại Lý - Trần coi tam giáo đồng tôn mà trong đó đạo Phật có vị thế áp đảo, các triều đại Lê - Nguyễn về sau với các chính sách độc tôn Nho thuật đã có những cái nhìn khắt khe, khinh thị đối với phong tục của các sắc dân phương Nam. Tư tưởng Hoa Di lúc này trở nên tiêu cực, và là một trong những nguyên nhân chính thúc đẩy triều đình Lê, Nguyễn thực thi các chính sách đồng hóa văn hóa, “dụng Hạ biến di”. Kể từ việc vua Lê Thánh Tông thảo phạt Bồn Man, Chiêm Thành được mô tả : “Bồn Man bướng nghe giáo hóa thì hạ lệnh cày xới gốc rễ của chúng, Sơn Man quấy rối vùng biên thì cất quân quét sạch sào huyệt của chúng… bắt dân chúng mặc áo xiêm của ta, khiến đất chúng thành quận huyện của ta” ; đến những sắc lệnh cải đổi thói tục của dân man theo thuần phong của người Việt diễn ra liên tiếp dưới thời vua Minh Mệnh, mà một trong những nội dung quan trọng chính là việc hướng người man đổi mặc quần áo của người Việt. Như năm 1829, vua Minh Mệnh xuống dụ ban tên họ cho các thủ lĩnh người man có đoạn viết : “Từ trước đến nay tục mọi noi nhau, chỉ theo thế thứ, chẳng biết ở họ nào mà ra. Ôi sửa đổi phong tục ắt phải dần dần, mà đấng vương giả dạy bảo nào có phân biệt. Lần này bọn thổ ty ấy đã theo về phong hóa, mặc xiêm áo của ta, nhưng nếu cứ để cho có tên mà không có họ, há phải là ý của trẫm coi mọi người như nhau ? Nay gia ơn chuẩn cho Thổ tri châu châu Mường Vang tên Kiềm, cho họ là Lâm ; thổ tri châu châu Na Bôn tên Xế cho họ là Thạch… rồi ghi theo họ mới ban cho, viết đổi lại sắc mệnh mỗi người một đạo, phát giao cho bọn ấy nhận lấy, đời đời tuân phụng, để phân rõ họ hàng, theo luân thường, đều đi đến đạo lớn, khiến ngày càng nhuốm gội Hoa phong”. Năm 1834 người Thủy Xá sai sứ đến cống, vua Minh Mệnh có lời dụ rằng : “Thánh nhân dùng Hạ biến di, nên lấy lễ nghĩa dạy bảo, khiến dần dần đổi thành thói Hoa Hạ. Bèn thưởng cho sứ thần ấy cả bộ áo mũ trước kỳ hạn. Hôm trẫm ngự ở điện, đã chuẩn cho sứ thần ấy vào triều cống, tận mắt thấy bọn họ áo mũ chỉnh tề, quỳ lạy thung dung, đều hợp lễ tiết, trẫm rất lấy làm khen ngợi… Lại thưởng cho chánh sứ lấy họ là Lĩnh, vẫn dùng tên cũ là Duyên, phó sứ họ là Kiệu vẫn dùng tên cũ là Tài, ngõ hầu biết được họ tên, ngày một nhuốm gội Hoa phong...”. Ông đồng thời còn nói : “Thánh nhân dùng Hạ biến di, có thể đem lễ nghĩa ra dạy bảo thì loài có mai vảy cũng có thể thay đổi mà biết mặc xiêm áo”. Tháng 12 năm 1835, ông lại tiếp tục có lời dụ : “Đất man đã lệ thuộc bản đồ của ta từ lâu, dân man cũng là con đỏ của ta, phải nên bảo ban dìu dắt, để ngày một nhiễm theo Hán phong… Phàm những thứ cần dùng đều phải học tập Hán dân, chăm việc làm lụng. Đến như ngôn ngữ thì bảo họ dần dần tập nói Hán âm. Ăn uống và áo quần cũng dạy cho dần dần theo Hán tục. Ngoài ra, hễ có điều gì phải đổi bỏ thói hủ lậu mà làm cho giản tiện dễ dàng thì cũng tùy cơ chỉ bảo. Thông cảm họ dẫu là man mọi, nhưng cũng có lương tri và lương năng… Hun đúc thấm nhuần, dùng Hạ biến di, đấy cũng là một đường lối thay đổi phong tục”. Như vậy có thể thấy, tư tưởng Đế Vương và quan niệm Hoa Di đã có những ảnh hưởng mang tính quyết định đến việc lựa chọn trang phục cũng như đến văn hóa cung đình Việt Nam. Sau khi văn hiến, phong tục Trung Hoa đã thâm nhập và hòa quyện với các yếu tố bản địa trở thành một phần của văn hóa bản địa, thì từ việc sử dụng ngôn ngữ Hán trong quan phương đến việc áp dụng lề lối, lễ nghi cổ điển của Trung Quốc vào cuộc sống cung đình, triều đình Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản đều không còn khái niệm “vay mượn” hay “bắt chước”. Đối với các quốc gia này, văn minh Trung Hoa đã sớm trở thành một sản phẩm chung, một kho dữ liệu mà họ có quyền sử dụng, và có quyền từ đó tạo cho mình một nền văn hiến, điển chương "không thua kém Trung Quốc". |
” |
— Vân Trai Trần Quang Đức, «Những tư-tưởng ảnh-hưởng đến văn-hóa trang-phục cung-đình Việt-nam» |
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (tập II): thế kỷ X-thế kỷ XVII, NXB.Văn học, 1976, tr.131-135)
Tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]
- Việt Nam Sử Lược Tập I, Trần Trọng Kim, Nhà xuất bản Đại Nam, Sài gòn, 1964
- Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần, Ngô Tất Tố, Nhà xuất bản Đại Nam, Sài gòn, 1961
- Trần Quang Đức, Áo xiêm chưa đổi hết, sách vở còn nguyên sao ?, Hà Nội, 2016.
- Trần Quang Đức, Hán - Việt, Hà Nội, 2016.
- Trần Quang Đức, Hán nô ?, Hà Nội, 2016.
Tư liệu[sửa | sửa mã nguồn]
![]() |
Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về: |
Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref>
với tên nhóm “Chú thích”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="Chú thích"/>
tương ứng, hoặc thẻ đóng </ref>
bị thiếu