Jean Kaltack

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Jean Kaltack
Thông tin cá nhân
Ngày sinh 19 tháng 8, 1994 (29 tuổi)
Nơi sinh Vanuatu
Vị trí Tiền đạo
Thông tin đội
Đội hiện nay
Erakor Golden Star
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
0000–2009 Teouma Academy
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2009–2011 Teouma Academy
2011 Hekari United
2012–2013 Erakor Golden Star
2013–2014 Hekari United
2014–2015 Erakor Golden Star
2015– Tafea
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2009–2011 U-17 Vanuatu 8 (5)
2011– U-20 Vanuatu 9 (9)
2012– U-23 Vanuatu 5 (4)
2011– Vanuatu 8 (9)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 19:53, ngày 1 tháng 5 năm 2014 (UTC)
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 14:33, ngày 7 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Jean Kaltack (sinh ngày 19 tháng 8 năm 1994) là một tiền đạo người Vanuatu và chơi cho câu lạc bộ Erakor Golden Star.

Sự nghiệp ở câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Kaltack là cựu học viên của học viện Teouma, bắt đầu chơi tại giải Vanuatu Premia Divisen từ mùa bóng 2009-2010.[1] Anh chơi cho đội tới năm 2011 trước khi gia nhập Hekari United của Papua New Guinea vào tháng 9 năm 2011.[2]

Sự nghiệp quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Kaltack, initially chơi cho đội U-17 Vanuatu tại Giải vô địch bóng đá U-17 châu Đại Dương năm 2009 nơi đội tuyển của anh xếp cuối cùng trong 4 đội tham gia.[3] Anh tiếp tục thi đấu tại giải Giải vô địch bóng đá U-17 châu Đại Dương năm 2011, anh ghi được 5 bàn và đội của anh tiếp tục xếp thứ 4. Ba tháng sau, anh có trận ra mắt cho đội U-20 tại giải Giải vô địch bóng đá U-20 châu Đại Dương năm 2011 anh nhận danh hiệu Chiếc giày vàng với 6 bàn thắng và đội của anh đứng thứ ba chung cuộc.[4] Thành tích tại đội trẻ giúp anh được gọi lên đội tuyển quốc gia thi đấu giao hữu với đội Solomon vào cuối tháng 7 năm 2011.[5] Đội của anh thắng một trận và hòa một trận.[6][7]

Bàn thắng quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

U-20 Vanuatu

Cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Cuộc sống cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Anh trai của Kaltack, Tony và anh họ, Brian cũng là cầu thủ bóng đá.[8][9] Cha của anh, Ivoky, cũng là một cựu tiền đạo.[10]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Ian King; Hans Schöggl. “Vanuatu 2009/10: PVFA Lik – Premia Divisen 2009/10”. RSSSF. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  2. ^ “Striker Kaltak signs for Hekari”. OceaniaFootball.com. OFC. ngày 14 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.
  3. ^ “Matches – OFC U-17 Championship New Zealand 2009”. Oleole. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.
  4. ^ “Kiwis rule Oceania, reach Colombia”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. ngày 2 tháng 5 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.
  5. ^ “Kaltack set for Vanuatu debut work=OceaniaFootball.com”. OFC. ngày 27 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012. Thiếu dấu sổ thẳng trong: |title= (trợ giúp)
  6. ^ “Vanuatu 0–0 Solomon”. Vanuafoot.vu. VFF. ngày 27 tháng 7 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.
  7. ^ “End of Match: Vanuatu 2–0 Solomon”. Vanuafoot.vu. VFF. ngày 30 tháng 7 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.
  8. ^ “Vanuatu out of Under 17 final race”. Vanuafoot.vu. VFF. ngày 16 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.
  9. ^ “Promise aplenty in Vanuatu ranks”. OceaniaFootball.com. Ocean Football Confederation. ngày 20 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.
  10. ^ “Jean Kaltack heads off to PNG”. Vanuafoot.vu. VFF. ngày 22 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]