Khâu Diệu Tân

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Khâu Diệu Tân
Qiu Miaojin/Chiu Miao-chin
邱妙津
Sinh(1969-05-29)29 tháng 5 năm 1969
Chương Hóa, Đài Loan
Mất25 tháng 6 năm 1995(1995-06-25) (26 tuổi)
Paris, Pháp
Nghề nghiệpTiểu thuyết gia
Nhà văn viết truyện ngắn
Nhà làm phim
Ngôn ngữtiếng Trung Quốc (Đài Loan)
Quốc tịchĐài Loan
Trường lớpTrung học phổ thông Đệ nhất Nữ sinh Đài Bắc
Đại học Quốc lập Đài Loan
University of Paris VIII
Giai đoạn sáng tác1989–1995
Thể loạiHư cấu
Tự truyện
Trào lưuVăn học đồng tính (văn học queer)
Tác phẩm nổi bậtNhật ký Cá sấu
Di thư từ Montmartre
Giải thưởng nổi bậtChina Times Honorary Prize for Literature
Central Daily News Short Story Prize
United Literature Association Award

Khâu Diệu Tân (tiếng Trung: 邱妙津; bính âm: Qiū Miàojīn) là một tiểu thuyết gia người Đài Loan và là nhà văn đồng tính nữ nổi tiếng nhất Đài Loan. Chị được biết đến nhiều nhất qua tác phẩm Nhật ký Cá sấu xuất bản năm 1994. Sự nghiệp của chị, mặc dù ngắn ngủi, nhưng rất có dấu ấn và trùng hợp với sự xuất hiện của một số cuộc tranh luận then chốt giúp định hình các phong trào bảo vệ quyền LGBTQ mạnh mẽ của Đài Loan ngày nay.[1]

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Khâu Diệu Tân sinh ngày 29 tháng 5 năm 1969 tại thành phố Chương Hoá, phía tây đảo Đài Loan. Khâu Diệu Tân lớn lên theo học tại trường Trung học phổ thông Đệ nhất Nữ sinh Đài Bắc, sau đó là tốt nghiệp ngành Tâm lý học tại Đại học Quốc lập Đài Loan vào năm 1991. Chị từng làm công việc tham vấn và sau đó làm phóng viên cho tuần báo The Journalist. Năm 1994, chị chuyển đến Paris sinh sống để tiếp tục học lên ngành Tâm lý học lâm sàngNữ luận tại Đại học Paris VIII, học tập với nhà triết học Hélène Cixous.[2]

Khi ở Paris, chị đạo diễn một bộ phim dài ba mươi phút tên Ghost Carnival, và không lâu sau đó tự vẫn ở tuổi hai mươi sáu. Đa phần những tin đồn nói rằng chị tự đâm mình bằng một con dao bếp.[3][4]

Sáng tác[sửa | sửa mã nguồn]

Lối viết của Khâu Diệu Tân có ảnh hưởng từ cấu trúc phi trần thuật của dòng phim avant-gardephim thể nghiệm cũng như chủ nghĩa hiện đại trong văn học châu Âu và Nhật Bản.[5] Tiểu thuyết của chị sử dụng thủ pháp ekphrasis (nghệ thuật miêu tả tác phẩm hình ảnh bằng lời) và chứa đựng những góc máy điện ảnh như một kiểu đối thoại với điện ảnh nghệ thuật châu Âu, trong đó có ám chỉ tới các đạo diễn như Andrei Tarkovsky, Theo Angelopoulos, Derek Jarman, và Jean-Luc Godard. Trong thời gian ở Paris, chị đã đạo diễn bộ phim ngắn Ghost Carnival.[6] Các tác phẩm của chị với tư cách nhà làm phim hiện đang nằm trong bộ sưu tập thuộc Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại, New York.[7]

Nhật ký Cá sấu là tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của Khâu Diệu Tân. Qua tiểu thuyết này chị được truy tặng giải thưởng China Times Literature Award năm 1995.[5] Biệt danh của nhân vật chính, La Tử (lazi), được dùng làm thuật ngữ lóng cho "người đồng tính nữ" trong văn hóa Đài Loan.[8] Nhật ký Cá sấu xuất bản năm 1994, giữa lúc truyền thông Đài Loan đang điên cuồng xoay quanh vấn đề đồng tính nữ. Vào năm 1993, phóng viên của một đài truyền hình đã trà trộn vào quay lén một quán bar đồng tính nữ rồi phát tán trên truyền hình, khiến nhiều nạn nhân bị gia đình và xã hội phát hiện, một trong những nạn nhân ở đó đã tự sát vì áp lực xã hội khi cô bị "công khai" bất đắc dĩ.[9] Bên cạnh đó còn có sự kiện tháng 7 năm 1994 khi hai nữ sinh tự sát bằng khí than trong nhà vệ sinh khách sạn, truyền thông cho rằng bi kịch xảy ra vì hai nữ sinh này là đồng tính nữ. Có tin đồn rằng hai cô gái tự sát là cặp đôi đồng tính học cùng trường trung học ưu tú mà Khâu Diệu Tân từng theo học. Thế nên, Nhật ký Cá sấu xuất hiện vào thời điểm đầy thử thách đối với cộng đồng người đồng tính Đài Loan, và theo lời của nhà văn người Đài Loan Hong Ling: "Vào mùa hè oi bức năm 1994, cuối cùng cũng đã xuất hiện, một con cá sấu mà không thể ngó lơ sự tồn tại của nó trên nền văn học ảm đạm và cằn cỗi của Đài Loan. Với tác phẩm này, tiếng nói của những người đồng tính nữ Đài Loan đã thực sự thể hiện được sức mạnh, cả trong chính cuốn tiểu thuyết lẫn trong tiếp nhận của độc giả đối với nó."[10] Cùng với tác phẩm cuối cùng của Khâu Diệu Tân trước khi qua đời, Di thư từ Montmartre, Nhật ký Cá sấu đã được nhiều người mô tả là "một tác phẩm kinh điển sùng bái".[11][12][13]

Di thư từ Montmartre là một cuốn tiểu thuyết thể thư tín (epistolary novel) bao gồm 20 lá thư có thể đọc theo bất kỳ thứ tự nào[14] dựa trên khái niệm về tính bất định (indeterminacy) trong âm nhạc. Nhân vật Zoe với hai mươi lá thư được gửi cho Nhứ, người tình ở Đài Bắc, và Vĩnh, một người bạn tâm giao ở Tokyo, kèm theo những miêu tả về cuộc sống thường nhật ở Paris, về trường lớp, điện ảnh, những dự định cho tương lai, trăn trở suy nghĩ về sự tồn tại hay bản chất giới tính.[15] Tác phẩm được cho là viết trong khoảng từ ngày 27 tháng 4 năm 1995 đến ngày 17 tháng 6 năm 1995, khoảng một tuần trước khi tác giả tự sát, những bức thư bắt đầu bằng lời đề tặng: "Dành cho chú thỏ con đã chết và bản thân tôi, sẽ sớm chết."

Năm 2007, một bộ nhật ký của Khâu Diệu Tân gồm hai tập đã được xuất bản di cảo.[16]

Di sản[sửa | sửa mã nguồn]

Khâu Diệu Tân được công nhận là quốc bảo văn chương và là biểu tượng cho văn hóa phản kháng,[17][18] đồng thời còn được mô tả như một "tử đạo" của phong trào đấu tranh cho quyền lợi của cộng đồng LGBT ở Đài Loan.[2] Những tác phẩm của chị được dùng trong giảng dạy trong nhiều trường trung học và đại học ở quốc gia này và những tác phẩm ấy còn trở thành "hình mẫu văn chương cho nhiều nhà văn khao khát".[17]

Cuốn sách Xoá Đi Nỗi Buồn (遣悲懷) của Lạc Dĩ Quân được viết để tưởng nhớ Khâu Diệu Tân.[19] Nhà văn Đài Loan Li Kotomi chia sẻ rằng Nhật ký Cá sấu là nguồn cảm hứng sâu đậm cho cuốn tiểu thuyết Solo Dance năm 2017 của cô.[20] Ocean Vuong chọn trích một câu trong Di thư từ Montmartre làm đề từ cho cuốn tiểu thuyết Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian.[a][21][22]

Nhà nghiên cứu Fran Martin, chuyên nghiên cứu về lý thuyết Queer trong Hán học, đã viết rằng:

Khâu Diệu Tân là tác giả đồng tính nữ nổi tiếng nhất Đài Loan. [...] Tiểu thuyết của cô đôi khi bị cáo buộc là 'tiêu cực' quá mức về những gì người đồng tính nữ từng trải; tuy nhiên, địa vị của cô với tư cách là một người đồng tính nữ công khai và là một trí thức của công chúng cũng như sự trung thực và mãnh liệt về cảm xúc trong sáng tác của cô khiến cô trở thành một nhân vật có ý nghĩa lâu dài đối với độc giả đồng tính nữ của Trung Quốc ở khắp mọi nơi.[23]


Năm 2017, cuộc đời và sự nghiệp của chị được làm thành một bộ phim tài liệu do Đài Truyền hình Hồng Kông sản xuất và được Evans Chan làm đạo diễn.[2][7]

Danh mục tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Tiểu thuyết[sửa | sửa mã nguồn]

Truyện ngắn[sửa | sửa mã nguồn]

  • 鬼的狂歡 – 1991 (Lễ hội ma)
  • 寂寞的群眾 – 1995 (Đám đông cô đơn)
  • Platonic Hair – 1990, bản dịch tiếng Anh của Fran Martin[27] ISBN 978-0-231-13841-3

Xuất bản di cảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • 邱妙津日記 – 2007 (Nhật ký Khâu Diệu Tân, 2 quyển), xuất bản di cảo của nhà xuất bản INK印刻

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ But let me see if—using these words as a little plot of land and my life as a cornerstone— I can build you a center. —Qiu Miaojin

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Los Angeles Review of Books”. Los Angeles Review of Books (bằng tiếng Anh). 7 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2023.
  2. ^ a b c “Taiwanese novelist who killed herself in Paris at 26, Qiu Miaojin, remembered and reassessed in RTHK film”. South China Morning Post. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2017.
  3. ^ 劉, 建華 (2007). “從偽裝到自白——邱妙津的"女同"認同之路”. www.fgu.edu.tw. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2022. 1995年,邱妙津以一把水果刀刺入胸部,結束了自己二十六歲的生命。
  4. ^ 傅, 婷婷 (2016). “爱在蒙马特高地”. 夏日阅读 世界的另一个入口 (28). 1995年6月,刚过完26岁生日不久,邱妙津就像是玩了一个大大的游戏,选择了在巴黎的留学生宿舍用水果刀刺胸自杀。
  5. ^ a b Martin, Fran; Heinrich, Ari Larissa (31 tháng 7 năm 2006). Embodied Modernities: Corporeality, Representation, and Chinese Cultures (bằng tiếng Anh). University of Hawaii Press. tr. 177–178. ISBN 978-0-8248-2963-6.
  6. ^ “Qiu Miaojin”. Words Without Borders (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2023.
  7. ^ a b “Qiu Miaojin”. Paper Republic. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2017.
  8. ^ Heinrich, Ari Larissa (7 tháng 5 năm 2017). “Consider the Crocodile: Qiu Miaojin's Lesbian Bestiary”. The Los Angeles Review of Books. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2017.
  9. ^ “Gay club video row envelops TV host - Taipei Times”. www.taipeitimes.com. 27 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2023.
  10. ^ “Qiu Miaojin”. Making Queer History (bằng tiếng Anh). 30 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2023.
  11. ^ “PEN Translation Fund: Bonnie Huie, Excerpts from Qiu Miaojin's Notes of a Crocodile”. PEN American Center. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2013.
  12. ^ 'Cult Classic of Taiwanese Lesbian Literature' Now Excerpted In English, Available Online”. Autostraddle. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2012.
  13. ^ “Last Words From Montmartre”. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2016.
  14. ^ “Last Words from Montmartre”. Goodreads (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2023.
  15. ^ Lý Ái Mỹ (18 tháng 11 năm 2020). “Đi tìm những con cá sấu ở Ximending: Khát vọng tính nữ và Văn hoá Đồng chí Đài Loan trong thập niên 1990” [Đi tìm những con cá sấu ở Ximending: Khát vọng tính nữ và Văn hoá Đồng chí Đài Loan trong thập niên 1990]. Zzz Review. Phía bên nhà Z. 9: 129. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2023.
  16. ^ 邱妙津 (女) (2007). 邱妙津日記 (bằng tiếng Trung). Ink印刻岀版有限公司. ISBN 978-986-6873-50-8.
  17. ^ a b Chiang, H. (11 tháng 12 năm 2012). Transgender China (bằng tiếng Anh). Palgrave Macmillan US. tr. 161–165. ISBN 978-1-349-34320-1.
  18. ^ “PEN Translation Fund: Bonnie Huie on translating Qiu Miaojin”. PEN American Center. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2013.
  19. ^ 方格子vocus (23 tháng 6 năm 2021). “【書評】《遣悲懷》:燒掉金閣的意義,駱以軍留下了無限的但書,正如同邱妙津的死”. The News Lens 關鍵評論網 (bằng tiếng Trung). Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2023.
  20. ^ himani (24 tháng 5 năm 2022). “Li Kotomi's "Solo Dance" Is Haunted by Death and Literature”. Autostraddle (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2022.
  21. ^ Martin, Rachel (3 tháng 7 năm 2021). “Immigration Doesn't Just Mean Coming To America. These 4 Books Are Good Reminders”. NPR News. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  22. ^ Vuong, Ocean (4 tháng 6 năm 2019). On Earth We're Briefly Gorgeous. Penguin Press. ISBN 978-0525562023.
  23. ^ Gerstner, David A. (1 tháng 3 năm 2006). Routledge International Encyclopedia of Queer Culture (bằng tiếng Anh). Routledge. tr. 396. ISBN 978-1-136-76181-2.
  24. ^ Core, Leopoldine (5 tháng 5 năm 2017). “A Taiwanese Classic Now Available in English”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2023.
  25. ^ “NHẬT KÝ CÁ SẤU - KHÂU DIỆU TÂN”. Nhà xuất bản Phụ nữ. 5 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2023.
  26. ^ “Last Words from Montmartre”. New York Review Books (bằng tiếng Anh). 3 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2023.
  27. ^ in F. Martin (Ed. & Trans.), Angelwings: Contemporary Queer Fiction from Taiwan. Honolulu: University of Hawai'i Press, 2003.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]