Level-5 (công ty)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Level-5 Inc.
Tên bản ngữ
株式会社レベルファイブ
Tên phiên âm
Kabushiki gaisha Reberu Faibu
Loại hình
Kabushiki gaisha
Ngành nghềTrò chơi điện tử
Thành lậptháng 10 năm 1998; 25 năm trước (1998-10)
Trụ sở chínhFukuoka, Nhật Bản
Thành viên chủ chốt
Sản phẩm
Số nhân viên300 (2020[1])
Chi nhánh
  • Level-5 abby[1]
  • Level-5 Motion Capture Studio[2]
Công ty con
Websitewww.level5.co.jp

Level-5 Inc. là nhà phát triểnnhà sản xuất trò chơi điện tử của Nhật Bản có trụ sở tại FukuokaHino Akihiro thành lập công ty vào tháng 10 năm 1998, sau khi ông rời khỏi công ty Riverhillsoft đã phá sản. Ngay từ ban đầu, công ty đã có mối quan hệ chặt chẽ với Sony Computer Entertainment, với nhiều tựa trò chơi được tài trợ và sản xuất cùng nhau. Bắt đầu từ năm 2007, công ty bắt đầu tự phát hành tựa trò chơi của riêng mình tại Nhật Bản, trong khi Nintendo tiếp quản công bố phát hành trò chơi trên hệ máy của họ ra toàn thế giới. Trong những năm gần đây, công ty đã tự xuất bản trò chơi của họ. Công ty nổi tiếng nhất với Dark Cloud, Professor Layton, Inazuma Eleven, Ni no Kuni, Yo-kai Watch, và Snack World, trong số rất nhiều thương hiệu khác.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 10 năm 1998 Hino Akihiro và nhóm phát triển của mình tại Riverhillsoft thành lập công ty Level-5, sau khi phát hành OverBlood 2.[4] Vì Hino ban đầu không tin rằng nhóm của ông có thể trở thành nhóm phát triển độc lập, nên ông giao kết mối quan hệ với Sony Computer Entertainment, để cho phép ông phát triển trò chơi cho hệ máy PlayStation 2 sắp ra mắt, với điều kiện là ông ấy phải thành lập công ty riêng.[4]

Cái tên "Level-5", là một tham chiếu liên quan đến học bạ của các trường học tại Nhật Bản, trong đó "Level-5" là điểm số cao nhất có thể. Ngay sau khi thành lập, công ty đã có 11 nhân viên.[4]

Sản phẩm hoàn thiện đầu tiên của Level-5 là trò chơi nhập vai hành động Dark Cloud, phát triển theo hợp đồng của Sony Computer Entertainment. Dự định là một trò chơi ra mắt cho hệ máy PlayStation 2 của Nhật Bản, nó đã bị trì hoãn, trước khi ra mắt vào tháng 3 năm 2000 để có thời gian phát triển hơn nữa, cuối cùng cũng phát hành tại Nhật Bản vào tháng 12 năm 2000 và trên toàn thế giới vào năm 2001. Ngay lập tức bắt tay vào làm phần tiếp theo có tiêu đề Dark Chronicle (Dark Cloud 2 ở Bắc Mỹ). Dù không thành công như phần đầu, Dark Chronicle vẫn được khen ngợi và bán ra hơn nửa triệu bản trên toàn thế giới.

Giữa năm 2002, công ty bắt đầu được công nhận khi bắt đầu phát triển ba trò chơi cao cấp:

  • True Fantasy Live Online cho Microsoft, một MMORPG đã trở thành một trong những tựa trò chơi hàng đầu cho Xbox và dịch vụ Xbox Live ở Nhật Bản trước khi đột ngột bị hủy bỏ vào năm 2004.
  • Dragon Quest VIII cho Square Enix, hãng đã chọn mặt gửi vàng cho Level-5 để phát triển thương hiệu dưới sự giám sát của nhà thiết kế của loạt Horii Yuji và đội của ông ta tại Armor Project.
  • Rogue Galaxy, RPG thứ ba của hãng cho Sony Computer Entertainment, với ngân sách lớn hơn và quyền tự do sáng tạo hơn các sản phẩm trước đây.

Chỉ trong bốn năm, Level-5 đã khởi nghiệp từ một xưởng nhỏ đến một trong những nhà phát triển RPG hàng đầu tại Nhật Bản, và kể từ đó đạt những thành công quan trọng và thương mại to lớn. Đầu năm 2007, công ty tự phát hành tựa trò chơi đầu tay đầu tiên tại Nhật Bản, Professor Layton and the Curious Village, đem về thành công về mặt doanh thu đáng kinh ngạc, hơn 840.000 bản đã bán ra và chính thức đưa Level- 5 thành nhà phát triển phát hành trò chơi điện tử tương tác ở Nhật Bản.

Matsuno Yasumi, đạo diễn của Vagrant Story, Final Fantasy Tactics, và loạt Ogre Battle, tham gia vào Level-5 tháng 6 năm 2011,[5] nhưng đã rời công ty sau khi hoàn thành Crimson Shroud cho Nintendo 3DS.[6]

Vào đầu những năm 2010, Level-5 là một trong mười công ty trò chơi điện tử lớn nhất ở Nhật Bản, chiếm thị phần 3,2%.[7]

Vào tháng 10 năm 2015, Level-5 thành lập một công ty con ở Santa Monica, hợp tác với Dentsu, gọi là Level-5 Abby. Mục đích là phát triển giải trí đa phương tiện cho nhân khẩu học phương Tây.[8]

Vào tháng 10 năm 2020, có báo cáo rằng các hoạt động ở Bắc Mỹ của công ty, bao gồm cả Level-5 Abby, đã ngừng hoạt động do doanh số bán hàng thấp.[9]

Dịch vụ Roid [sửa | sửa mã nguồn]

Trong năm 2009, Level-5 đã ra mắt dịch vụ Roid (Revolutionary Original Ideas Discovery), một ứng dụng phân phối trò chơi cho điện thoại di động.[10] Chỉ tương thích với dịch vụ internet i-mode của NTT DoCoMo ở Nhật Bản. Người dùng trả một khoản phí hàng tháng để truy cập vào các trò chơi độc quyền và các trò chơi xã hội. Nền tảng này ra mắt với sáu trò chơi: Sloan and McHale's Mystery Story, Professor Layton and the Mansion of the Mirror of Death Remix, Chara Jo P, Yuuenchi wo Tsukurō Revolution, Treasure Island, và Elf the Dragonn. Ba sản phẩm đầu tiên do Level-5 phát triển, trong khi ba sản phẩm cuối cùng do các công ty ngoài phát triển.[10]

Danh sách trò chơi[sửa | sửa mã nguồn]

Tất cả các trò chơi do Level-5 phát triển và/hoặc xuất bản trừ khi có ghi chú khác

Tựa Hệ máy Ngày phát hành
Dark Cloud[a] PlayStation 2 14 tháng 12 năm 2000
Dark Chronicle[a] PlayStation 2 28 tháng 11 năm 2002
Dragon Quest VIII[b] PlayStation 2 27 tháng 11 năm 2004
Rogue Galaxy[a] PlayStation 2 8 tháng 12 năm 2005
Jeanne d'Arc[a] PlayStation Portable 22 tháng 11 năm 2006
Professor Layton and the Curious Village Nintendo DS 15 tháng 2 năm 2007
Android 8 tháng 6 năm 2018
Professor Layton and the Diabolical Box Nintendo DS 29 tháng 11 năm 2007
Android 5 tháng 12 năm 2018
Inazuma Eleven Nintendo DS 22 tháng 8 năm 2008
Nintendo 3DS 27 tháng 12 năm 2012
Professor Layton and the Unwound Future Nintendo DS 27 tháng 11 năm 2008
Android 13 tháng 7 năm 2020
White Knight Chronicles[a] PlayStation 3 25 tháng 12 năm 2008
Paul Sloane & Des MacHale's Intriguing Tales[11] Nintendo DS 21 tháng 5 năm 2009
Professor Tago's Mental Gymnastics #1 and #2[11] Nintendo DS 18 tháng 6 năm 2009
Dragon Quest IX[12][b] Nintendo DS 11 tháng 7 năm 2009
Paul Sloane & Des MacHale's Intriguing Tales 2[11] Nintendo DS 3 tháng 9 năm 2009
Inazuma Eleven 2[11][13] Nintendo DS 1 tháng 10 năm 2009
Nintendo 3DS 27 tháng 12 năm 2012
Professor Tago's Mental Gymnastics #3 and #4[11] Nintendo DS 8 tháng 10 năm 2009
Professor Layton and the Last Specter[11] Nintendo DS 26 tháng 11 năm 2009
Inazuma Eleven 3[12] Nintendo DS 1 tháng 7 năm 2010
Nintendo 3DS 27 tháng 12 năm 2012
White Knight Chronicles II[a][14] PlayStation 3 8 tháng 7 năm 2010
Ni no Kuni: Dominion of the Dark Djinn[12] Nintendo DS 9 tháng 12 năm 2010
Ni no Kuni: Hotroit Stories[12] Mobile phone 9 tháng 12 năm 2010
Professor Layton and the Miracle Mask Nintendo 3DS 16 tháng 2 năm 2011
Danball Senki PlayStation Portable 16 tháng 6 năm 2011
Inazuma Eleven Strikers[15] Wii 16 tháng 7 năm 2011
Ni no Kuni: Wrath of the White Witch PlayStation 3 17 tháng 11 năm 2011
Nintendo Switch 20 tháng 9 năm 2019
Microsoft Windows
PlayStation 4
Little Battlers eXperience Boost PlayStation Portable 23 tháng 11 năm 2011
Inazuma Eleven GO[16] Nintendo 3DS 15 tháng 12 năm 2011
Inazuma Eleven Strikers 2012 Xtreme Wii 22 tháng 12 năm 2011
Girls RPG: Cinderellife[17][18] Nintendo 3DS 8 tháng 3 năm 2012
Ni no Kuni: Daibouken Monsters Mobile phone 11 tháng 5 năm 2012
Guild01 Nintendo 3DS 31 tháng 5 năm 2012
Little Battlers eXperience Nintendo 3DS 5 tháng 7 năm 2012
Time Travelers[19] Nintendo 3DS 12 tháng 7 năm 2012
PlayStation Portable
PlayStation Vita
Layton Brothers: Mystery Room Android 12 tháng 9 năm 2012
iOS
Little Battlers eXperience W PlayStation Portable 18 tháng 10 năm 2012
PlayStation Vita
Professor Layton and the Phantom Thieves Android 14 tháng 11 năm 2012
iOS
Professor Layton vs. Phoenix Wright: Ace Attorney[19] Nintendo 3DS 29 tháng 11 năm 2012
Inazuma Eleven GO 2: Chrono Stone Nintendo 3DS 13 tháng 12 năm 2012
Inazuma Eleven GO Strikers 2013 Wii 20 tháng 12 năm 2012
Fantasy Life Nintendo 3DS 27 tháng 12 năm 2012
Professor Layton and the Azran Legacy[20] Nintendo 3DS 28 tháng 2 năm 2013
Liberation Maiden iOS 7 tháng 3 năm 2013
Guild02 Nintendo 3DS 13 tháng 3 năm 2013
Earth Devastating B-Grade Girlfriend Z: Space War iOS 25 tháng 6 năm 2013
Android 12 tháng 8 năm 2013
Yo-kai Watch Nintendo 3DS 11 tháng 7 năm 2013
Little Battlers eXperience W: Super Custom Nintendo 3DS 18 tháng 7 năm 2013
Fantasy Life Link! Nintendo 3DS 25 tháng 7 năm 2013
Little Battlers eXperience: Wars Nintendo 3DS 31 tháng 10 năm 2013
Inazuma Eleven GO 3: Galaxy Nintendo 3DS 5 tháng 12 năm 2013
Weapon Shop de Omasse Nintendo 3DS 19 tháng 2 năm 2014
Yo-kai Watch 2 Nintendo 3DS 10 tháng 7 năm 2014
Yo-kai Watch Blasters Nintendo 3DS 11 tháng 7 năm 2015
Yo-kai Watch: Wibble Wobble[c][21] Android 21 tháng 10 năm 2015
iOS 28 tháng 10 năm 2015
Yo-kai Watch Dance: Just Dance Special Version[d] Wii U 5 tháng 12 năm 2015
Yo-kai Sangokushi[e] Nintendo 3DS 2 tháng 4 năm 2016
Yo-kai Watch 3 Nintendo 3DS 16 tháng 7 năm 2016
Inazuma Eleven: Everyday+ Android 30 tháng 6 năm 2017
iOS
Layton's Mystery Journey Android 20 tháng 7 năm 2017
iOS
Nintendo 3DS
Nintendo Switch 8 tháng 11 năm 2019
Snack World: Trejarers Nintendo 3DS 10 tháng 8 năm 2017
Otome Yusha[f][22] Android 16 tháng 12 năm 2017
iOS
Yo-kai Watch Blasters 2 Nintendo 3DS 16 tháng 12 năm 2017
Yo-kai Sangokushi: Kunitori Wars[e] Android 11 tháng 1 năm 2018[23]
iOS
Ni no Kuni II: Revenant Kingdom Microsoft Windows 23 tháng 3 năm 2018
PlayStation 4
Nintendo Switch 17 tháng 9 năm 2021[24]
Snack World: The Dungeon Crawl – Gold Nintendo Switch 12 tháng 4 năm 2018
Yo-kai Watch: Gerapo Rhythm Android 10 tháng 5 năm 2018
iOS
Yo-kai Watch World[g] Android 27 tháng 6 năm 2018[25]
iOS
Fantasy Life Online Android 23 tháng 7 năm 2018[26]
iOS
Yo-kai Watch 4 Nintendo Switch 20 tháng 6 năm 2019[27]
PlayStation 4 5 tháng 12 năm 2019[28]
Y School Heroes: Bustlin' School Life Nintendo Switch 13 tháng 8 năm 2020[29]
PlayStation 4 29 tháng 10 năm 2020
Ni no Kuni: Cross Worlds[h] Android 10 tháng 6 năm 2021
iOS
Inazuma Eleven: Great Road of Heroes Android 2023[30]
iOS
Nintendo Switch
PlayStation 4
Megaton Musashi[31] Nintendo Switch Chưa biết
PlayStation 4
PlayStation 5
Ushiro Nintendo Switch
True Fantasy Live Online Xbox Đã hủy

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f Sony Computer Entertainment phát hành
  2. ^ a b Square Enix phát hành Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Square Enix” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  3. ^ Đồng phát triển với NHN PlayArt
  4. ^ Ubisoft phát triển
  5. ^ a b Koei Tecmo phát triển
  6. ^ h.a.n.d. phát triển
  7. ^ GungHo Online Entertainment phát triển
  8. ^ Netmarble phát triển

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b “会社概要|株式会社レベルファイブ”.
  2. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ 16 Tháng Ba năm 2023. Truy cập 10 tháng Mười năm 2018.
  3. ^ “株式会社レベルファイブ”.
  4. ^ a b c Hino, Akihiro; Iwata, Satoru (2010). “Iwata Asks: Professor Layton and the Mask of Miracles, page 2”. Iwata Asks. Nintendo of America Inc. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2011.
  5. ^ “How Yasumi Matsuno Ended Up at Level-5”. ngày 30 tháng 6 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2011.
  6. ^ “Yasumi Matsuno leaves Level 5”. ngày 8 tháng 11 năm 2012.
  7. ^ “Market Data”. Capcom. ngày 30 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2014.
  8. ^ “LEVEL-5 abby Inc”.
  9. ^ Galiz-Rowe, Ty (ngày 12 tháng 10 năm 2020). “Ni No Kuni Developer Level-5 Is Shutting Down In North America-Report”. GameSpot. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2020.
  10. ^ a b “Level-5's ROID Service Kicks Off Today -- Andriasang.com”. ngày 24 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2012.
  11. ^ a b c d e f “Level-5 International America History & Products 2009”. 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2011.
  12. ^ a b c d “Level-5 International America History & Products 2010”. 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2011.
  13. ^ “In shops now: Inazuma Eleven 2: Firestorm and Inazuma Eleven 2: Blizzard”. 2012. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2012.
  14. ^ “TGS 2009: White Knight Chronicles 2 Revealed”. Kotaku.
  15. ^ “今度の敵は未来から!? 『イナズマイレブン』感謝祭で映画版・Wii版・第4弾を発表 - 電撃オンライン” (bằng tiếng Nhật). News.dengeki.com. ngày 27 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2013.
  16. ^ “3DS Inazuma Eleven Due This Winter”. ngày 19 tháng 6 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 6 năm 2011.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  17. ^ “Level-5 Bringing Mobile Hostess Sim to 3DS (andriasang.com, 10.20.2010)”. ngày 22 tháng 10 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2010.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  18. ^ “Girl's RPG Cinderelife - In Development”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2011.
  19. ^ a b GUEST. “Level-5 Vision 2010 Live Blog (andriasang.com, 10.19.2010)”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2014.
  20. ^ Gantayat, Anoop (2011). “First Professor Layton Crosses One Million”. Adriasang. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2011.
  21. ^ “Yo-kai Watch: Wibble Wobble”. yo-kai-wibblewobble.com. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 5 năm 2018. Truy cập 10 tháng Mười năm 2018.
  22. ^ “オトメ勇者”. Official Otome Yusha game page.
  23. ^ Romano, Sal (ngày 11 tháng 1 năm 2018). “Yo-kai Sangokushi: Kunitori Wars now available in Japan”. Gematsu. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2018.
  24. ^ Gilliam, Ryan (ngày 20 tháng 5 năm 2021). “Ni no Kuni 2 comes to Switch this September”. Polygon. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2021.
  25. ^ Sato (ngày 27 tháng 6 năm 2018). “Yo-kai Watch World For Smartphones Is The Series' Take On Pokémon GO”. Siliconera. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2018.
  26. ^ Sato (ngày 18 tháng 7 năm 2018). “Fantasy Life Online Goes Live In Japan On July 23”. Siliconera. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2018.
  27. ^ Ryan, Craddock (ngày 11 tháng 10 năm 2018). “Yo-Kai Watch 4 Has Been Delayed Until Spring 2019 In Japan”. Nintendo Life. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2018.
  28. ^ Sato (ngày 5 tháng 12 năm 2019). “Yo-kai Watch 4++ Released Today In Japan, Here's Its Opening Movie”. Siliconera. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2020.
  29. ^ Romano, Sal (ngày 11 tháng 3 năm 2020). “Yo-kai Watch Jam: Yo-kai Academy Y – Waiwai Gakuen Seikatsu announced for PS4, Switch”. Gematsu. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2020.
  30. ^ Nelva, Giuseppe (ngày 2 tháng 4 năm 2021). “Inazuma Eleven: Great Road of Heroes Delayed Again to 2023; New Nintendo Switch Gameplay Revealed”. Gematsu. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2021.
  31. ^ Romano, Sal (ngày 12 tháng 11 năm 2020). “Megaton Musashi adds PS5 version”. Gematsu. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2020.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]