Tổng giáo phận Palembang

Tổng giáo phận Palembang

Archidioecesis Palembangensis

Keuskupan Agung Palembang
Vị trí
Quốc gia Indonesia
Giáo tỉnhPalembang
Toạ độ2°59′20″N 104°44′50″Đ / 2,9889375°N 104,7471875°Đ / -2.9889375; 104.7471875
Thống kê
Khu vực157.000 km2 (61.000 dặm vuông Anh)
Dân số
- Địa bàn
- Giáo dân
(tính đến 2003)
10.828.441
76.201 (0,7%)
Thông tin
Nghi lễNghi lễ Latinh
Nhà thờ chính tòaNhà thờ chính tòa Đức Bà Maria tại Palembang
Lãnh đạo hiện tại
Giáo hoàngPhanxicô
Tổng giám mục Gioan Harun Yuwono
Tổng Đại diệnFêlix Astono Atmaja
Nguyên giám mụcAloisiô Sudarso, S.C.I.
Bản đồ
Trang mạng
Trang mạng của Tổng giáo phận

Tổng giáo phận Palembang (tiếng Indonesia: Keuskupan Agung Palembang; tiếng Latinh: Archidioecesis Palembangensis) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma, với tòa giám mục đặt tại thành phố Palembang thuộc tỉnh Nam Sumatra, Indonesia.

Địa giới[sửa | sửa mã nguồn]

Địa giới tổng giáo phận bao gồm các tỉnh Nam Sumatra, JambiBengkulu ở phía nam đảo Sumatra thuộc Indonesia.

Tòa giám mục và Nhà thờ chính tòa Đức Bà Maria của tổng giáo phận được đặt tại thành phố Palembang.

Tổng giáo phận được chia thành 29 giáo xứ.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Hạt Phủ doãn Tông tòa Benkoelen được thành lập vào ngày 27/12/1923 theo đoản sắc Cum propagationi của Giáo hoàng Piô XI, trên phần lãnh thổ tách ra từ Hạt Phủ doãn Tông tòa Sumatra (nay là Tổng giáo phận Medan).

Vào ngày 13/6/1939 Hạt Phủ doãn Tông tòa được nâng cấp thành một Hạt Đại diện Tông tòa theo tông sắc Apostolica của Giáo hoàng Piô XII, đổi tên thành Hạt Đại diện Tông tòa Palembang.

Vào ngày 19/6/1952 một phần lãnh thổ của Hạt Đại diện Tông tòa được tách ra để thành lập Hạt Phủ doãn Tông tòa Tandjung-Karang (nay là Giáo phận Tanjungkarang).

Vào ngày 3/1/1961 Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc Quod Christus của Giáo hoàng Gioan XXIII. Ban đầu giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Medan.

Vào ngày 1/7/2003 giáo phận được nâng cấp thành một tổng giáo phận đô thành theo tông sắc Pascendi Dominici gregis của Giáo hoàng Gioan Phaolô II.

Giám mục quản nhiệm[sửa | sửa mã nguồn]

Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ.

Thống kê[sửa | sửa mã nguồn]

Đến năm 2021, trên toàn tổng giáo phận có 80.880 giáo dân trên dân số tổng cộng 14.717.600, chiếm 0,5%.

Năm Dân số Linh mục Phó tế Tu sĩ Giáo xứ
giáo dân tổng cộng % linh mục đoàn linh mục triều linh mục dòng tỉ lệ
giáo dân/linh mục
nam tu sĩ nữ tu sĩ
1950 5.410 2.500.000 0,2 19 19 284 36 76 8
1970 24.999 4.500.000 0,6 32 32 781 47 121
1980 37.045 5.620.000 0,7 32 1 31 1.157 51 116
1990 59.670 7.406.000 0,8 40 4 36 1.491 64 192 24
1999 72.968 10.500.000 0,7 62 16 46 1.176 65 221 26
2000 74.233 10.750.000 0,7 59 19 40 1.258 60 227 26
2001 76.480 11.852.600 0,6 66 22 44 1.158 63 222 26
2002 77.298 11.622.559 0,7 67 22 45 1.153 73 227 26
2003 76.201 10.828.441 0,7 69 22 47 1.104 65 236 26
2013 73.265 12.588.884 0,6 84 31 53 872 69 333 26
2016 76.509 12.993.702 0,6 88 33 55 869 75 327 26
2019 80.070 14.217.147 0,6 93 41 52 860 78 368 29
2021 80.880 14.717.600 0,5 98 42 56 825 83 373 29

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Được bổ nhiệm làm Giám mục hiệu tòa Giáo phận Dausara.

Tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]

  • (tiếng Latinh) Breve Cum propagationi, AAS 16 (1924), p. 83
  • (tiếng Latinh) Bolla Apostolica, AAS 32 (1940), p. 16
  • (tiếng Latinh) Bolla Quod Christus, AAS 53 (1961), p. 244
  • “Bolla Pascendi Dominici gregis (bằng tiếng La-tinh).

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]