Trận Vũ Hán

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận Vũ Hán
Một phần của Chiến tranh Trung-Nhật
Thời gian11 tháng 627 tháng 10 năm 1938
Địa điểm
Vũ Hán và các vùng lân cận ở An Huy, Hà Nam, Giang TôHồ Bắc
Kết quả Về chiến thuật: Quân Nhật thắng (chiếm được Vũ Hán)
Về tác chiến: Quân Nhật thất bại (mất đến nửa binh lực mà không bắt được bộ chỉ huy của quân Trung Quốc)
Về chiến lược: Quân Trung Quốc thắng (kìm chân được địch, bẻ gãy ý đồ đánh nhanh thắng nhanh)
Tham chiến
Đài Loan Quân đội Cách mạng Dân quốc, Trung Hoa Dân quốc
Không quân Tình nguyện Liên Xô[1]
 Nhật Bản
Chỉ huy và lãnh đạo
Đài Loan Tưởng Giới Thạch Đế quốc Nhật Bản Hata Shunroku
Đế quốc Nhật Bản Kan'in Kotohito
Đế quốc Nhật Bản Okamura Yasuji
Đế quốc Nhật Bản Tanaka Shizuichi
Đế quốc Nhật Bản Nakajima Kesago
Lực lượng
1.100.000 quân (120 sư đoàn),
200 máy bay,
30 tàu chiến
350.000 quân,
500 máy bay,
120 tàu chiến
Thương vong và tổn thất
400.000 chết hoặc bị thương.[2],
100 quân Liên Xô[cần dẫn nguồn]
140.000 chết hoặc bị thương[2]
Trận Vũ Hán
Tên tiếng Trung
Phồn thể武漢會戰
Giản thể武汉会战
Defense of Wuhan
Phồn thể武漢保衛戰
Giản thể武汉保卫战
Tên tiếng Nhật
Kanji武漢攻略戦

Trận Vũ Hán (ở Trung Quốc gọi là Giao chiến Vũ Hán (phồn thể: 武漢會戰; bính âm: Wǔhàn Huìzhàn ) hoặc Cuộc chiến đấu bảo vệ Vũ Hán (phồn thể: 武漢保衛戰; bính âm: Wǔhàn Baǒwèizhàn ); ở Nhật Bản gọi là Cuộc tấn công Vũ Hán (tiếng Nhật: 武漢攻略戦; rōmaji: Bukan koryakūsen) diễn ra từ 11 tháng 6 đến 27 tháng 10 năm 1938 tại thành phố Vũ Hán và lân cận ở miền Trung Trung Quốc. Hai phía tham chiến là 1,1 triệu quân Quân đội Cách mạng Dân quốc của Trung Hoa Dân quốc dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tổng tư lệnh Tưởng Giới Thạch và 35 vạn quân Lục quân Đế quốc Nhật Bản dưới sự chỉ huy của Đại tướng Hata Shunroku. Đây là một trong những trận lớn nhất, lâu nhất và dữ dội nhất trong Chiến tranh Trung-Nhật. Cuộc chiến có sự tham gia của Không quân Liên Xô hỗ trợ cho quân Trung Quốc.

Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Vị trí của Vũ Hán

Đầu tháng 7 năm 1937, Lục quân Nhật Bản xuất phát từ phía Bắc Trung Quốc bắt đầu tiến công quy mô lớn. Chưa đầy một tháng sau, họ chiếm được Bắc Kinh và Thiên Tân. Tháng 8, quân Nhật chiếm được Sát Cáp Nhĩ và Tuy Viễn. Sau đó, họ đánh dọc theo tuyến đường sắt Bắc Bình-Hán Khẩu và Thiên Tân-Phổ Khẩu xuống vùng bình nguyên Hoa Bắc (khu vực sông Hoàng Hà). Đầu tháng 9, quân Nhật chiếm được Thái Nguyên và khai thác các mỏ than ở đây để cung cấp nhiên liệu cho mình. Từ Thái Nguyên, quân Nhật đánh sang Hân Khẩu, đánh bại cả liên quân Dân quốc, Cộng sản và quân phiệt địa phương Sơn Tây của Trung Quốc. Giữa tháng 12, quân Nhật chiếm được Thượng Hải. Từ Thượng Hải, quân Nhật dễ dàng chiếm được thủ đô Nam Kinh và gây ra một cuộc thảm sát tàn bạo ở đây. Tháng 5 năm 1938, quân Nhật chiếm được Từ ChâuGiang Tô.

Trước sự tiến công nhanh và mạnh của quân Nhật, Tưởng Giới Thạch quyết định rút lui về phía Tây Nam và tạm rời thủ đô kháng chiến về Vũ Hán. Vũ Hán là thành phố lớn thứ hai ở châu thổ sông Dương Tử xét về dân số và về kinh tế. Quân Nhật cho rằng chiếm được Vũ Hán và bắt bộ tư lệnh quân đội Trung Quốc ở đây sẽ là đòn quyết định để kết thúc chiến tranh. Phía Trung Quốc thì quyết tâm bảo vệ Vũ Hán, cầm chân đối phương ở đây để đánh bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Nhật và có thời gian cho trung ương di chuyển về Trùng Khánh.

Lực lượng[sửa | sửa mã nguồn]

Nhật Bản mở rộng phạm vi lãnh thổ

Để chống lại quân Nhật tấn công Vũ Hán, Tưởng Giới Thạch bố trí tới 120 sư đoàn tinh nhuệ nhất của mình ở lại Vũ Hán cùng các chỉ huy ưu tú nhất của Quân đội Cách mạng Dân quốc như Trần Thành, Tiết Nhạc, Ngô Kỳ Vỹ, Trương Phát Khuê, Vương Kính Cửu, Âu Chấn, Lý Tông Nhân, Tôn Liên Trọng. Đặc biệt, lần này phía Trung Quốc nhận được sự chi viện của Liên Xô bao gồm cả một phi đội máy bay chiến đấu.

Phía quân Nhật là Phương diện quân Trung tâm Trung Quốc do đại tướng Hata Shunroku chỉ huy. Phương diện quân này có 2 quân đoàn. Quân đoàn số 11 do trung tướng Okamura Yasuji chỉ huy gồm 6 sư đoàn. Quân đoàn số 2 do hoàng thân, trung tướng Higashikuni Naruhiko chỉ huy gồm 4 sư đoàn.

Chuẩn bị[sửa | sửa mã nguồn]

Người dân Trung Quốc sơ tán vì Lụt Hoàng Hà 1938 đang được quân Nhật cứu.
Khu vực ảnh hưởng lũ 1938

Ngày 28 tháng 2 năm 1938, không quân Nhật Bản đã đến ném bom xuống Vũ Hán. Tuy nhiên, quân Trung Quốc đã đẩy lui được.[3][4] Ngày 29 tháng 4, máy bay Nhật lại đến ném bom Vũ Hán để kỷ niệm ngày sinh của Thiên hoàng Chiêu Hòa.[5] Quân Trung Quốc đã dự đoán được điều này và chuẩn bị kỹ lực lượng để giáng trả. Một trong những cuộc không chiến dữ dội nhất trong chiến tranh Trung-Nhật đã diễn ra. Không quân Trung Quốc đã bắn hạ 21 máy bay của quân Nhật và bản thân mất 12 máy bay.[6]

Cố gắng để có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc giao tranh ở Vũ Hán, quân Trung Quốc đã mở khẩu đê sông Hoàng Hà chỗ chảy qua Hoa Viên Khẩu gây ngập lụt trên diện rộng buộc quân Nhật phải hoãn tấn công. Trận lụt này được gọi là Lụt Hoàng Hà 1938. Tuy nhiên, nó đã cướp đi 50 vạn sinh mạng thường dân Trung Quốc.[7][8]

Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn]

Lược đồ trận Vũ Hán.
Các binh sĩ Quân Cách mạng Dân quốc xông lên tiêu diệt sư đoàn 106 của Nhật.
Quân Trung Quốc ở Tín Dương.
Quân Nhật ở Vũ Hán.
Tổ súng máy của Trung Quốc.

Ở phía Nam sông Dương Tử, ngày 13 tháng 6, quân đoàn 11 của Nhật đổ bộ và chiếm được An Khánh, mở màn trận Vũ Hán. Quân Nhật tiến dọc theo bờ Nam sông Dương Tử đánh nhanh từ Đông sang Tây rồi quay lại về phía Đông. Lần lượt các thị trấn An Khánh, Cửu Giang, Thụy Xương, Nhược Hy, Tân Đàm Phố, Mã Đương, Phú Kim Sơn, Dương Tân, Đạt Chi, Kỳ Tha Thành bị quân Nhật chiếm. Ngày 1 tháng 10, sư đoàn số 106 quân đoàn 11 của quân Nhật do thiếu tướng Matsuura Junrokuro chỉ huy được lệnh đi vòng sau lưng quân Trung Quốc ở Nam Tầm tới vùng Vạn Gia Lĩnh để chia cắt quân Trung Quốc ở Nam Tấm với lực lượng phía sau. Tuy nhiên, ý đồ này bị quân Trung Quốc phát hiện. Khoảng 10 vạn quân Trung Quốc thuộc biên chế của 3 quân đoàn tăng cường thêm 8 sư đoàn và 1 trung đoàn nữa đã bao vây sư đoàn số 106 của quân Nhật. Tướng Nhật Okamura điều sư đoàn 27 đến giải vây cho sư đoàn 106 nhưng không thành công. Phần lớn sư đoàn 106 của Nhật, khoảng 10.000 người, đã bị tiêu diệt, chỉ có khoảng 1.700 người thoát được. Đây là lần đầu tiên trong chiến tranh Trung-Nhật, 1 sư đoàn của Nhật bị tiêu diệt. Tuy nhiên, phía quân Trung Quốc cũng bị thương vong tới 40.000 người.[9][10]

Đến ngày 29 tháng 10 (tức là sau 3 tháng rưỡi), quân Nhật đến được Vũ Xương sát thành phố Vũ Hán.

Ở phía Bắc sông Dương Tử, ngày 24 tháng 7, sư đoàn 6 quân đoàn 11 của Nhật từ An Huy đánh sang Thái Hồ. Quân Nhật đã chọc thủng phòng tuyến của quân Trung Quốc và đến ngày 3 tháng 8 đã chiếm được các huyện Thái Hồ, Túc TùngHoàng Mai (Hồ Bắc). Tuy nhiên, đến cuối tháng 8, quân Trung Quốc giành lại được Thái Hồ và Túc Tùng. Quân Trung Quốc nhân đà đó tiến hành phản công, song thất bại và phải rút về Quảng Tế để củng cố lực lượng. Sau đó, họ cố gắng đánh vào sườn quân Nhật ở Hoàng Mai để kìm bước tiến của địch, song không thành công. Quảng Tế và Vũ Khuyết rơi vào tay quân Nhật. Các nỗ lực chặn địch của quân Trung Quốc đều thất bại vì quân Nhật có ưu thế hỏa lực và kinh nghiệm tác chiến vượt trội. Quân Nhật chiếm được Thiên Gia trấn vào ngày 29 tháng 9, Hoàng Pha vào ngày 24 tháng 10, áp sát Hán Khẩu.

Đại Biệt Sơn là một dãy núi lớn giữa 2 tỉnh Hồ Bắc và An Huy, chạy dài theo hướng Tây Bắc-Đông Nam từ sông Hoài tới sông Dương Tử. Vùng này thuộc phạm vi của quân khu 5 của Trung Hoa Dân quốc. Quân đoàn 2 của Nhật bắt đầu tiến công vào Đại Biệt Sơn từ cuối tháng 8 theo 2 hướng. Sư đoàn 13 tấn công ở phía Nam. Sư đoàn 10 và sư đoàn 3 tấn công ở phía Bắc.

Ngày 12 tháng 10, cánh quân phía Bắc của quân đoàn 2 Nhật đánh đến Tín Dương và di chuyển về hướng Nam hỗ trợ cánh quân phía Nam. Ngày 24 tháng 10, quân đoàn 2 đánh đến Ma Thành, sau đó tiếp tục di chuyển xuống phía Nam cùng quân đoàn 11 hợp vây thành phố Vũ Hán. Quân Trung Quốc rút lui khỏi thành phố Vũ Hán để bảo toàn lực lượng. Ngày 26 tháng 10, Vũ Xương và Hán Khẩu thất thủ. Ngày 27, Hán Dương thất thủ.

Sử dụng vũ khí hóa học[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Yoshiaki Yoshimi và Seiya Matsuno, Thiên hoàng Chiêu Hòa đã cho phép quân Nhật sử dụng vũ khí hóa học để đánh quân Trung Quốc.[11] Trong trận Vũ Hán, Hoàng thân Kan'in đã truyền lệnh của Thiên hoàng dùng hơi độc 375 lần, từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1938,[12] bất chấp Điều 23 của Công ước Hague (1899 và 1907), Điều 171 của Hòa ước Versailles, Điều V của Hiệp ước hữu quan về sử dụng tàu ngầm và hơi độc trong chiến tranh [13] . Sau đó, một giải pháp đã được Hội Quốc Liên thông qua ngày 14 tháng 5 ngăn chặn Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng hơi độc.[14]

Kết quả[sửa | sửa mã nguồn]

Quân đội Nhật Bản kỉ niệm việc chiếm đóng Vũ Hán.

Sau 4 tháng kịch chiến, về cơ bản Hải quân và Không quân Trung Quốc đã bị Quân đội Nhật quét sạch. Vũ Hán rơi vào tay Quân đội Nhật Bản. Tuy nhiên, trận thắng tại Vũ Hán là một chiến thắng kiểu Pyrros của Quân đội Nhật Bản:[15] trong khi Quân đội Nhật yếu đi vì thương vong, thì lực lượng Quân đội Trung Quốc sống sót vẫn còn khá đông. Nỗ lực của quân Nhật đánh đòn kết liễu quân Trung Quốc đã không thành công.[15] Sau trận này, quân Nhật không còn sức đánh trận lớn nào nữa cho đến tận Chiến dịch Ichi-Go (hay trận Đại Lục đả thông).

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Soviet Fighters in the sky of China
  2. ^ a b The Tragedy of Wuhan, 1938
  3. ^ “Sino-Japanese Air War 1937-45”.
  4. ^ "Wuhan Diary" 28 tháng 2 năm 1938
  5. ^ (tiếng Nhật) Tenchosetsu — Japanese national holiday (the birthday of the reigning emperor)
  6. ^ "Wuhan Daily" 30 tháng 4 năm 1938.
  7. ^ Huang-He floods, Encyclopedia Britannica
  8. ^ Lary, Diana (ngày 1 tháng 4 năm 2001). “Drowned Earth: The Strategic Breaching of the Yellow River Dyke, 1938”. War in History. 8 (2): 191–207. doi:10.1177/096834450100800204. 1082337951.
  9. ^ (tiếng Trung) Battle of Wuhan: Smash the Japanese Ambition! Lưu trữ 2013-10-29 tại Wayback Machine
  10. ^ Sino-Japanese War classical combat example: Wan Jialing major success[liên kết hỏng]
  11. ^ Dokugasusen Kankei Shiryō II, Kaisetsu, Jūgonen sensō gokuhi shiryōshū, Funi Shuppankan, 1997, trang 25–29.
  12. ^ Yoshimi và Matsuno, ibid. trang 28.
  13. ^ [1]
  14. ^ Herbert Bix, Hirohito and the Making of Modern Japan, Perennial, 2001, trang 739
  15. ^ a b Hội nghị đế quốc Nhật Bản, 15 tháng 6 năm 1938