Bước tới nội dung

Viktoria xứ Baden

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Viktoria xứ Baden
Viktoria von Baden
Vương hậu Viktoria vào năm 1910
Vương hậu Thụy Điển
Tại vị8 tháng 12 năm 1907 – 4 tháng 4 năm 1930
Thông tin chung
Sinh(1862-08-07)7 tháng 8 năm 1862
Karlsruhe, Baden
Mất4 tháng 4 năm 1930(1930-04-04) (67 tuổi)
Roma, Ý
An táng12 tháng 4 năm 1930
Nhà thờ Riddarholmen
Phối ngẫu
Hậu duệ
Tên đầy đủ
Sophie Marie Viktoria
Hoàng tộcZähringen
Thân phụFriedrich I, Đại công tước xứ Baden
Thân mẫuLuise của Phổ
Chữ kýChữ ký của Viktoria xứ Baden

Viktoria xứ Baden (tiếng Đức: Sophie Marie Viktoria; 7 tháng 8 năm 1862 – 4 tháng 4 năm 1930) là Vương hậu Thụy Điển từ ngày 8 tháng 12 năm 1907 cho đến khi qua đời vào năm 1930 với tư cách là phối ngẫu của Vua Gustaf V. Bà hoạt động chính trị theo hướng bảo thủ trong quá trình phát triển nền dân chủ và được biết đến là người thân Đức trong Thế chiến thứ nhất.

Early life

[sửa | sửa mã nguồn]

Đại Công nữ Viktoria sinh ngày 7 tháng 8 năm 1862 tại Lâu đài Karlsruhe, Baden, là con gái của Đại công tước Friedrich I xứ BadenVương tôn nữ Luise của Phổ. Viktoria được đặt tên theo tên bác gái của bà là Thái tử phi Victoria của Phổ, con gái Nữ vương Victoria của Liên hiệp Anh.

Viktoria được kèm riêng tại Cung điện Karlsruhe bởi các phó mẫu và gia sư riêng, trong một "Trường học Cung điện" không chính thức với các cô gái được tuyển chọn cẩn thận từ tầng lớp quý tộc. Bà được giáo dục theo chuẩn mực dành cho giới tính và giai cấp của mình, tập trung vào nghệ thuật, âm nhạc và ngôn ngữ, và bà có thể chơi piano, vẽ và nói tiếng Pháp và tiếng Anh. Viktoria được nuôi dạy nghiêm khắc và tập trung vào bổn phận, và ngoài ra mẹ bà còn ra lệnh cho bà ngủ trên những tấm nệm cứng cạnh cửa sổ mở. Vào thời điểm đó, phương pháp khắc nghiệt này được đề xuất là có lợi và sẽ làm sức khỏe của đứa trẻ sau này trở nên cứng cáp; nhưng người ta tin rằng điều này mang lại hậu quả xấu cho sức khỏe của Viktoria về sau.[1]

Thái tử phi

[sửa | sửa mã nguồn]
Viktoria và Gustaf của Thụy Điển

Ngày 20 tháng 9 năm 1881 tại Karlsruhe, Đại công nữ Viktoria kết hôn với Thái tử Gustaf của Thụy Điển và Na Uy, con trai Vua Oscar II của Thụy Điển và Na UySophia xứ Nassau. Từ đó trở đi, bà sử dụng tên "Victoria". Hoàng đế và Hoàng hậu Đức cũng có mặt tại đám cưới và cuộc hôn nhân được sắp xếp như một dấu hiệu cho thấy Thụy Điển thuộc về phạm vi của Đức ở Châu Âu.[2] Cuộc hôn nhân được biết đến rộng rãi ở Thụy Điển, nơi bà được gọi là "Công chúa Vasa"[3] vì là hậu duệ của triều đại Vasa cũ, và bà được nhận sự chào đón rất long trọng trong đoàn rước vào Stockholm ngày 1 tháng 10 năm 1881. Vào ngày 1 tháng 2 năm 1882, Viktoria và Gustaf đến thăm Oslo, nơi họ được chào đón bằng một đoàn rước gồm 3000 người cầm đuốc.

Thái tử phi Viktoria và Thái tử Gustaf của Thụy Điển, những năm 1880.

Viktoria và Gustaf được đưa đến với nhau bởi hai gia đình và cuộc hôn nhân của họ được cho là không hạnh phúc. Vào năm 1890–1891, Viktoria và Gustaf đến Ai Cập để hàn gắn mối quan hệ nhưng không thành công, được cho là do Viktoria để ý đến một trong những cận thần,[4] và bà thực hiện lại chuyến đi tới Ai Cập vào năm 1891–1892. Sau năm 1889, mối quan hệ cá nhân giữa Viktoria và Gustaf được coi là kết thúc, được Lars Elgklou đánh giá là một phần do Gustaf là người song tính.[5] Bà bị trầm cảm sau khi sinh đứa con đầu lòng vào năm 1882 và từ đó bà thường dành mùa đông tại các spa ở nước ngoài cho đến khi bà qua đời. Đến năm 1888, những chuyến đi mùa đông khiến bà trở nên không được ưa chuộng, và bà được mô tả là rất kiêu ngạo.[6] Ngoài ra, bà còn không đồng tình với cuộc hôn nhân giữa em rể của bà là vương tôn Oscar và nữ quan của bà là Ebba Munck af Fulkila vào năm 1888.[7] Năm 1889, Viktoria bị viêm phổi và được các bác sĩ yêu cầu phải trải qua mùa đông tại vùng khí hậu phía Nam thay vì khí hậu lạnh giá của Thụy Điển, và bà đã có mâu thuẫn với cha mẹ chồng về các chuyến đi tốn kém tại nước ngoài.

Viktoria được mô tả là người có ý chí mạnh mẽ và tài năng nghệ thuật, bà là một nhiếp ảnh gia và họa sĩ nghiệp dư tài năng và bà cũng điêu khắc. Trong những chuyến đi của mình tại Ai Cập và Ý, bà chụp ảnh và vẽ rất nhiều cũng như thử nghiệm nhiều kỹ thuật tráng ảnh khác nhau, tạo ra những bức ảnh chất lượng cao. Viktoria cũng chơi piano xuất sắc, ví dụ bà có thể chơi toàn bộ Der Ring des Nibelungen của Wagner mà không cần nốt nhạc. Bà được nhận một nền giáo dục âm nhạc tốt, và khi còn trẻ bà đã chơi các nốt nhạc trong các buổi hòa nhạc triều đình cho Franz Liszt, ngoài ra các nhà soạn nhạc yêu thích của bà là SchubertBeethoven. Bà cũng được mô tả là một người cưỡi ngựa điêu luyện.

Vương hậu

[sửa | sửa mã nguồn]
Viktoria, Công nương Thụy Điển cùng mẹ, Đại công tước phu nhân Luise xứ Baden (con gái duy nhất của Wilhelm I, Hoàng đế Đức) và con trai cả, Gustaf Adolf, năm 1883.
Vương hậu Viktoria của Thụy Điển.

Viktoria trở thành Vương hậu của Thụy Điển sau khi cha chồng là vua Oscar II qua đời vào ngày 8 tháng 12 năm 1907. Với tư cách là Vương hậu, bà chỉ có mặt ở Thụy Điển vào mùa hè nhưng vẫn làm chủ triều đình.[8] Bà đã sắp xếp cuộc hôn nhân giữa con trai là Wilhelm và Nữ Đại vương công Maria Pavlovna của Nga vào năm 1908,[8] và ngoài ra bà cũng tham gia nhiều hoạt động từ thiện khác nhau ở Thụy Điển, Đức và Ý.

Vương hậu Viktoria trong bộ quân phục Đại tá chỉ huy của Trung đoàn súng trường Pomerania số 34 được đổi tên để vinh danh bà.

Vương hậu Viktoria có ảnh hưởng chính trị đáng kể đối với chồng bà và thường được coi là thân Đức. Năm 1908, Viktoria có chuyến thăm chính thức tới Berlin cùng Gustaf, nơi bà được phong làm Đại tá danh dự của Phổ thuộc Trung đoàn súng trường số 34 (Pomerania) bởi người anh họ Wilhelm II. Viktoria được mô tả là người nghiêm khắc, hiếu chiến và người ta nói rằng bà có trái tim của một người lính Phổ.[9] Bà rất nghiêm khắc và kỷ luật và nếu bất kỳ thành viên nào của đội cận vệ cung điện quên chào bà, người đó thường sẽ bị bắt giữ.[10] Đời sống triều đình Thụy Điển cũng bị chi phối bởi một sự cứng nhắc nhất định được duy trì bởi nữ quan được bà sủng ái là Helene Taube.[11] Bà có quan điểm bảo thủ sâu sắc và phẫn nộ trước sự giải thể của liên minh Thụy Điển-Na Uy năm 1905, cuộc Đại đình công năm 1909, chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 1911 của những người theo phe cấp tiến và Xã hội chủ nghĩa cũng như những người theo chủ nghĩa tự do, và khi con trai bà tạm thời làm nhiếp chính vào năm 1912, bà cảnh báo ông trong những lá thư từ Ý rằng ông không nên quá "thân mật" với chính phủ được bầu chọn.[12] Bà vô cùng phẫn nộ trước chiến thắng của phe dân chủ xã hội trong cuộc bầu cử năm 1917 và đã nỗ lực ngăn cản họ tham gia vào chính phủ.[13]

Vương hậu Viktoria đã mất đi nhiều sự ủng hộ của người Thụy Điển vì thái độ thân Đức của bà, đặc biệt là về mặt chính trị trong Thế chiến thứ nhất khi bà được cho là đã ảnh hưởng rất lớn đến chồng mình. Trong Thế chiến thứ nhất, bà tặng một món quà cá nhân cho mọi tình nguyện viên Thụy Điển tham gia lực lượng Đức.[10] Bà vẫn giữ liên lạc chặt chẽ với người anh họ của mình là Hoàng đế Đức Wilhelm II, người mà bà thường đến thăm trong chiến tranh[14] và thành lập "Drottningens centralkomittée" ("Ủy ban Trung ương của Vương hậu") để cung cấp thiết bị quốc phòng. Ảnh hưởng chính trị của Viktoria được xây dựng dựa trên vị thế quyền lực của người anh họ là Hoàng đế ĐứcVua Phổ, và vào năm 1918–19 sau khi ông bị phế truất, bà mất đi mọi ảnh hưởng chính trị ở Thụy Điển.[13]

Huy chương dành cho Vương hậu Viktoria năm 1930

Vương hậu Viktoria có sức khỏe rất kém (phần lớn do sự điều trị kém của các bác sĩ khi bà còn trẻ) và thường xuyên đi du ngoạn để cải thiện sức khỏe (bà bị viêm phế quản và có thể bị bệnh lao). Bà được điều trị bằng thủy ngân và các loại thuốc nặng không cần thiết khi đang mang thai khó khăn, có thể là nguyên nhân gây ra các bệnh mãn tính của bà. Từ năm 1892 đến khi qua đời, Axel Munthe là bác sĩ riêng của Vương hậu và đã khuyến nghị bà nên dành mùa đông trên đảo Capri của Ý vì lý do sức khỏe. Mặc dù ban đầu còn do dự nhưng Viktoria đến Capri vào mùa thu năm 1901, được chào đón trang trọng và được hộ tống bởi một đám đông từ Marina Grand đến Khách sạn Paradise. Từ đó trở đi, ngoại trừ trong Thế chiến thứ nhất và trong hai năm cuối đời, bà dành nhiều tháng vào mỗi năm ở Capri. Sau một thời gian, bà quyết định mua nơi ở riêng của mình trên đảo, đó là một ngôi nhà hai tầng mộc mạc và ấm cúng mà bà đặt tên là Casa Caprile, nơi bà cải tạo cảnh quan rộng rãi, bao quanh là một khu vườn rậm rạp. Vào những năm 1950, hai mươi năm sau khi bà qua đời, khu đất này trở thành một khách sạn.

Vương hậu đến dinh thự của Munthe, Villa San Michele, và dành hầu hết các buổi sáng để cùng Munthe đi dạo quanh đảo. Munthe và bà cũng sắp xếp các buổi hòa nhạc buổi tối tại San Michele nơi bà chơi piano. Họ cũng chia sẻ tình yêu với động vật với việc Vương hậu thường xuyên được nhìn thấy với một chú chó, và bà được biết đến là người ủng hộ những nỗ lực (cuối cùng đã thành công) của Munthe trong việc mua Núi Barbarossa để sử dụng làm khu bảo tồn chim. Người ta đồn rằng Munthe và Vương hậu là tình nhân nhưng điều này chưa bao giờ được xác nhận.

Vương hậu Viktoria dành nhiều thời gian ở nước ngoài vì lý do sức khỏe vì khí hậu Thụy Điển được coi là không tốt cho bà, và trong những năm cuối cùng của mình với tư cách là Vương hậu, bà hiếm khi có mặt ở Thụy Điển. Bà tham gia chuyến thăm chính thức tới Norrland năm 1921, chuyến thăm tới Dalarna năm 1924 và tới Phần Lan năm 1925, lần xuất hiện chính thức cuối cùng của bà với tư cách là Vương hậu. Mặc dù bà đến thăm Thụy Điển vào ngày sinh nhật của chồng vào năm 1928, nhưng bà không xuất hiện trước công chúng. Tuy nhiên trong lễ kỷ niệm đó, có người đã để ý thấy bóng dáng một người phụ nữ đằng sau tấm rèm trong Cung điện Hoàng gia Stockholm: ông ấy vẫy tay chào và bà vẫy tay đáp lại bằng chiếc khăn tay của mình.[15] Sau đó, bà rời Thụy Điển đến Ý và không còn quay trở lại nữa.

Viktoria là Nữ Tước sĩ thứ 855 của Huân chương Vương hậu Maria Luisa.

Qua đời

[sửa | sửa mã nguồn]
Quan tài của Vua Gustaf V và Vương hậu Viktoria bên trong Nhà thờ Riddarholmen.

Vào cuối đời khi sức khỏe của Viktoria trở nên suy giảm, Munthe khuyên bà không nên dành thêm thời gian ở Capri. Bà quay trở lại Thụy Điển một thời gian và xây dựng một biệt thự theo phong cách Capri ở đó, sau đó bà chuyển đến Roma. Chuyến thăm Thụy Điển cuối cùng của Vương hậu Viktoria là vào sinh nhật lần thứ 70 của vua Gustaf V vào tháng 6 năm 1928, và bà qua đời vào ngày 4 tháng 4 năm 1930 tại nhà riêng Villa Svezia ở Roma, thọ 67 tuổi.

Tên Sinh - Mất Ghi chú
Gustaf VI Adolf của Thụy Điển 11 tháng 11 năm 1882 – 15 tháng 9 năm 1973(1973-09-15) (90 tuổi) Kết hôn với:
  1. Margaret của Connaught (1882–1920), có hậu duệ (trong đo có Ingrid của Thụy Điển)
  2. Louise Mountbatten (1889–1965), có một con gái chết lưu
Vương tử Wilhelm, Công tước xứ Södermanland 17 tháng 6 năm 1884 – 5 tháng 6 năm 1965(1965-06-05) (80 tuổi) Kết hôn với Nữ đại vương công Maria Pavlovna của Nga (1890–1958), có hậu duệ
Vương tử Erik, Công tước xứ Västmanland 20 tháng 4 năm 1889 – 20 tháng 9 năm 1918(1918-09-20) (29 tuổi) Qua đời vì cúm Tây Ban Nha, không có vợ con

Huy hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]
Huy hiệu hôn nhân của Thái tử Gustaf và Thái tử phi Viktoria
Huy hiệu của Viktoria với tư cách là Vương hậu Thụy Điển
Chữ lồng hoàng gia của Vương hậu Viktoria của Thụy Điển

Tổ tiên

[sửa | sửa mã nguồn]

Tác phẩm ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Heribert Jansson (1963). Drottning Victoria. Stockholm: Hökerbergs bokförlag
  2. ^ Lars Elgklou (1978). Bernadotte. Historien – eller historier – om en familj [Bernadotte. The history – or stories – of a family.] (bằng tiếng Thụy Điển). Askild & Kärnekull Förlag AB. tr. 128. ISBN 91-7008-882-9.
  3. ^ Lars Elgklou (1978). Bernadotte. Historien - eller historier - om en familj [Bernadotte. The history – or stories – of a family.] (bằng tiếng Thụy Điển). Askild & Kärnekull Förlag AB. tr. 129. ISBN 91-7008-882-9.
  4. ^ Lars Elgklou (1978). Bernadotte. Historien – eller historier – om en familj [Bernadotte. The history – or stories – of a family.] (bằng tiếng Thụy Điển). Askild & Kärnekull Förlag AB. tr. 133. ISBN 91-7008-882-9.
  5. ^ Lars Elgklou (1978). Bernadotte. Historien – eller historier – om en familj [Bernadotte. The history – or stories – of a family.] (bằng tiếng Thụy Điển). Askild & Kärnekull Förlag AB. tr. 161. ISBN 91-7008-882-9.
  6. ^ Lars Elgklou (1978). Bernadotte. Historien – eller historier – om en familj [Bernadotte. The history – or stories – of a family.] (bằng tiếng Thụy Điển). Askild & Kärnekull Förlag AB. tr. 131. ISBN 91-7008-882-9.
  7. ^ Lars Elgklou (1978). Bernadotte. Historien – eller historier – om en familj [Bernadotte. The history – or stories – of a family.] (bằng tiếng Thụy Điển). Askild & Kärnekull Förlag AB. tr. 140. ISBN 91-7008-882-9.
  8. ^ a b Lars Elgklou (1978). Bernadotte. Historien – eller historier – om en familj [Bernadotte. The history – or stories – of a family.] (bằng tiếng Thụy Điển). Askild & Kärnekull Förlag AB. tr. 162. ISBN 91-7008-882-9.
  9. ^ Lars Elgklou (1978). Bernadotte. Historien – eller historier – om en familj [Bernadotte. The history – or stories – of a family.] (bằng tiếng Thụy Điển). Askild & Kärnekull Förlag AB. tr. 160. ISBN 91-7008-882-9.
  10. ^ a b Lars Elgklou (1978). Bernadotte. Historien – eller historier – om en familj [Bernadotte. The history – or stories – of a family.] (bằng tiếng Thụy Điển). Askild & Kärnekull Förlag AB. tr. 161. ISBN 91-7008-882-9.
  11. ^ Heribert Jansson (1963). Drottning Victoria. Stockholm: Hökerbergs bokförlag
  12. ^ Lars Elgklou (1978). Bernadotte. Historien – eller historier – om en familj [Bernadotte. The history – or stories – of a family.] (bằng tiếng Thụy Điển). Askild & Kärnekull Förlag AB. tr. 163. ISBN 91-7008-882-9.
  13. ^ a b Lars Elgklou (1978). Bernadotte. Historien – eller historier – om en familj [Bernadotte. The history – or stories – of a family.] (bằng tiếng Thụy Điển). Askild & Kärnekull Förlag AB. tr. 165. ISBN 91-7008-882-9.
  14. ^ Lars Elgklou (1978). Bernadotte. Historien – eller historier – om en familj [Bernadotte. The history – or stories – of a family.] (bằng tiếng Thụy Điển). Askild & Kärnekull Förlag AB. tr. 164. ISBN 91-7008-882-9.
  15. ^ Lars Elgklou (1978). Bernadotte. Historien – eller historier – om en familj [Bernadotte. The history – or stories – of a family.] (bằng tiếng Thụy Điển). Askild & Kärnekull Förlag AB. tr. 166. ISBN 91-7008-882-9.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Viktoria xứ Baden
Sinh: 7 tháng 8, 1862 Mất: 4 tháng 4, 1930
Vương thất Thụy Điển
Tiền nhiệm
Sophia xứ Nassau
Vương hậu Thụy Điển
1907–1930
Trống
Danh hiệu tiếp theo được tổ chức bởi
Louise Mountbatten