Wilhelmine của Phổ, Thân vương phi xứ Oranje

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Wilhelmine của Phổ
Wilhelmine von Preußen
Chân dung bởi Johann Friedrich August Tischbein năm 1789
Thân vương phi xứ Oranje
Tại vị4 tháng 10 năm 1767 – 9 tháng 4 năm 1806
(38 năm, 187 ngày)
Tiền nhiệmAnne của Đại Anh
Kế nhiệmWilhelmine của Phổ
Thông tin chung
Sinh(1751-08-07)7 tháng 8 năm 1751
Mất9 tháng 6 năm 1820(1820-06-09) (68 tuổi)
Phối ngẫu
Willem V xứ Oranje
(cưới 1767⁠–⁠1806)
Hậu duệ
Tên đầy đủ
Friederike Sophie Wilhelmine
Vương tộcNhà Hohenzollern
Nhà Oranje-Nassau (hôn nhân)
Thân phụAugust Wilhelm của Phổ
Thân mẫuLuise Amalie xứ Braunschweig-Wolfenbüttel
Vương thất Phổ - Hoàng thất Đức
Vương tộc Hohenzollern
Hậu duệ của Friedrich Wilhelm I của Phổ
Cháu nội
Friedrich Wilhelm II của Phổ
Friedrich Heinrich Karl, Vương tôn Phổ
Wilhelmine, Thân vương phi xứ Oranje
Emil, Vương tôn Phổ
Friederike, Vương tôn nữ Phổ
Heinrich, Vương tôn Phô
Luise, Thân vương phi Antoni Radziwiłł
Christian, Vương tôn Phổ
Prince Louis Ferdinand
Paul, Vương tôn Phổ
August, Vương tôn Phổ

Wilhelmine của Phổ (tiếng Đức: Wilhelmine von Preußen; tiếng Hà Lan: Wilhelmina van Pruisen; tiếng Anh: Wilhelmina of Prussia; tên đầy đủ: Friederike Sophie Wilhelmine;[1] 7 tháng 8 năm 1751 tại Berlin – 9 tháng 6 năm 1820 tại Het Loo),[2] cũng gọi là Wilhelmina của Phổ, là phối ngẫu của Willem V xứ Oranje và là người cai trị trên thực tế của phái bảo hoàng và phản cách mạng ở Hà Lan. Wilhelmine là con gái của August Wilhelm của PhổLuise Amalie xứ Braunschweig-Wolfenbüttel. Wilhelmine là Thân vương phi xứ Oranje tại vị lâu nhất.

Thân thế[sửa | sửa mã nguồn]

Wilhelmine sinh ngày 7 tháng 8 năm 1751 tại Berlin, là con gái duy nhất và là người con thứ ba của August Wilhelm của PhổLuise Amalie xứ Braunschweig-Wolfenbüttel.[3] Vương tôn nữ được rửa tội khoảng hai tháng sau đó và được đặt tên là Friederike Sophie Wilhelmine, được đặt theo Quốc vương Friedrich II Đại vương (bác), Friedrich Wilhelm I của Phổ (ông nội), Sophia Dorothea của Đại Anh (bà nội) và Friederike Sophie Wilhelmine của Phổ (bác bên nội).[4] Wilhelmine được nuôi dưỡng bởi bà nội và sau khi bà nội qua đời, Wilhelmine được giám hộ bởi Elisabeth Christine xứ Braunschweig-Wolfenbüttel-Bevern, Vương hậu Phổ và cũng chính là bác bên ngoại của Wilhelmine.[4][5]

Hôn nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Trước cả khi ra đời, bác gái bên nội của Wilhelmine là Luise Ulrike của Phổ, Vương hậu Thụy Điển, bấy giờ là trữ phi và đang mang thai (chính là Quốc vương Gustav III của Thụy Điển) đã đùa với "Hulla", tức là August Wilhelm hãy mau chóng có con gái:

Thậm chí hai năm sau đó, khi August Wilhelm chào mừng sự ra đời của con trai thứ hai là Heinrich, Vương hậu Luise Ulrike, dù vui mừng cho em trai nhưng vẫn bày tỏ sự không hài lòng khi August Wilhelm vẫn chưa có con gái:

Thậm chí là sau này, Luise Ulrike đã bày tỏ với anh trai Friedrich II mong muốn cho con trai Gustav kết hôn với Wilhelmine nhưng đã bị Friedrich II từ chối.[7]

Ngày 4 tháng 10 năm 1767 tại Berlin, Wilhelmine kết hôn với Willem V xứ Oranje, Thống đốc Hà Lan cuối cùng.[8][9] Người có công dàn xếp cuộc hôn nhân là Ludwig Ernst xứ Braunschweig-Wolfenbüttel, người bác bên ngoại của Wilhelmine.[10] Mặt khác chính Quốc vương Friedrich II của Phổ cũng muốn Willem V kết hôn với cháu gái.[11] Luận về thân phận, Wilhelmine có bậc xưng cao nhất trong triều đình Oranje là Royal Highness (Vương thân Điện hạ) trong khi chồng chỉ có bậc kính xưng thấp hơn là Serene Highness (tạm dịch: Điện hạ Cao trọng).[12]

Theo ghi nhận đương thời, Wilhelmine và chồng có đời sống hôn nhân hạnh phúc.[11] Wilhelmine được miêu tả là người " có học vấn tốt, thông minh, tràn đầy năng lượng và hòa đồng".[13] Qua thời gian, Wilhelmine dần chiếm được sự tín nhiệm của chồng và Willem V đã thảo luận chính sự với vợ, điều này đồng thời cũng làm suy yếu vị thế thống trị của người bác Ludwig Ernst đối với chồng Wilhelmine.[14] Và dù rằng là bác cháu, nhưng Wilhelmine lại có tư tưởng chính trị đối lập với Ludwig Ernst.[13] Thậm chí, Thân vương phi còn bày tỏ sự bất mãn với Ludwig Ernst với Friedrich II và nhìn nhận rằng Lugwid Ernst không có khả năng cai trị.[15]

Tham gia chính trị và cách mạng[sửa | sửa mã nguồn]

WIlhelmine của Phổ, chân dung bởi Johann Georg Ziesenis.
Bức chân dung Wilhelmine trong tư thế cưỡi ngựa bởi Tethart Philipp Christian Haag, trưng bày tại RijksmuseumAmsterdam

Từ năm 1788, Wilhelmine được chồng cho xem các tài liệu quan trọng.[16] Sau cuộc chiến tranh Anh-Hà Lan (1780–1784), khi hải quân Hà Lan không thể chống chọi với quân Anh, trách nhiệm bị quy về Willem V. Thân vương không thể đối phó được với sự nổi dậy mạnh mẽ của phe ái quốc dần can thiệp sâu vào chính quyền từ thị trấn này đến thị trấn khác.[17] Năm 1785, Wilhelmine cùng gia đình buộc phải rời khỏi Den Haag và Willem V nghĩ đến việc thoái vị.[18][19] Wilhelmine được khuyên rằng hãy để chồng thoái vị và lên nắm quyền, nhưng Thân vương phi không đồng ý.[20] Năm 1786, gia đình của Wilhelmine đã chuyển đến Nijmegen do Cung điện Het Loo đã trở nên không còn an toàn vì các hoạt động quân sự diễn ra tại Veluwe gần đó.[21][22]

Trong khi Willem V ở Amerfoort cùng quân đội trong nhiều tháng nhưng không dám tham chiến với phe ái quốc ở các tỉnh Hà Lan và Utrecht,[23] Wilhelmine mong muốn khôi phục vị thế của gia đình. Thân vương phi đã thảo luận với chồng rằng bản thân lại muốn đến Den Haag cùng hai con trai để thăm dò phản ứng khi có mặt hai con, tuy nhiên việc này được nhìn nhận là quá nguy hiểm và Willem V cũng phản đối đề xuất này. Nhưng sau cùng Wilhelmine cũng có được sự chấp thuận của chồng.[24] Sáng sớm ngày 28 tháng 6 năm 1787, Wilhelmine rời Nijmegen cùng với đoàn tùy tùng để đến Den Haag. Tuy nhiên, Thân vương phi cùng đoàn tùy tùng không thể đặt chân đến Holland vì bị người phe ái quốc chặn lại.[25][26] Họ nghi ngờ về số lượng lớn ngựa được yêu cầu và Wilhelmine bị đưa dến làng Hekendorp và bị giữ lại ở một trang trại gần Goejanverwellesluis trong hai ngày. Yêu cầu cho phép đến Den Haag của Wilhelmine gửi đến Quốc hội bị từ chối.[25]

Cả Wilhelmine và anh trai, Quốc vương Friedrich Wilhelm II của Phổ đều coi những sự việc này là một sự xúc phạm đối với Wilhelmine, vì Wilhelmine không chỉ là Thân vương phi xứ Oranje mà còn là một Vương nữ Phổ.[25][26][27] Mặt khác, hành động này của Wilhelmine được coi là một cái bẫy đối với phe ái quốc.[25] Friedrich Wilhelm II đã yêu cầu chính quyền ở Holland tạ lỗi với em gái nhưng bị từ chối.[28] Kế đó, Wilhelmine đã nhờ anh trai can thiệp quân sự. Lúc này, Pháp, dù rằng thường giữ liên lạc với phe ái quốc, quyết định giữ thế trung lập. Anh đe dọa sẽ can thiệp vào cuộc chiến theo phe Thống đốc. Do đó phe ái quốc lâm vào thế thân đơn thế cô.[25] Có sự đảm bảo từ phía Anh, ngày 13 tháng 9 năm 1787, Friedrich Wilhelm II, mặc dù mới nắm quyền được một năm, đã cho quân tấn công Cộng hòa Hà Lan tại biên giới tỉnh Gelderland.[26] Phe ái quốc không thể địch lại với 20.000 quân Phổ. Ngày 20 tháng 9 năm 1787 Willem V trở lại Den Haag được khôi phục lại quyền lực.[28] Hàng ngàn người thuộc phe ái quốc chạy trốn sang Pháp,[25] nhà cửa của họ bị thiêu rụi và tài sản bị tước đoạt. Những người ở lại thì bị tước bỏ chức vụ, bị tra tấn thể xác và đôi khi bị đưa ra tòa để trả thù. Wilhelmine tham gia tái xây dựng bộ máy nhà nước bằng cách bổ nhiệm người của mình vào các vị trí bị bỏ trống.[29]

Lưu vong và cuộc sống sau này[sửa | sửa mã nguồn]

Chân dung của Wilhelmine của Phổ khi sống lưu vong ở Anh.

Năm 1795, phe ái quốc đã quay trở lại với sự hỗ trợ của quân Pháp, và Willem V cùng gia đình phải chạy trốn đến chỗ đồng minh là George III của Liên hiệp Anh.[30][31] Ban đầu, cặp đôi sống ở Kew, sau đó chuyển đến Cung điện Hampton Court vào cuối tháng 2 năm 1795. Tại Anh, Wilhelmine sớm trở nên thân thiết với Vương hậu Charlotte và các Vương nữ Liên hiệp Anh.[32] Năm 1802, Wilhelmine chuyển đến Nassau ở với chồng (Willem V trước đó đã đến Nassau vào cuối năm 1801).[33] Mùa đông năm 1805, hai vợ chồng đến Braunschweig như thường lệ. Tuy nhiên, Willem V đã qua đời tại đây vào tháng 4 năm 1806. Sau đó, Wilhelmine và con gái - cả hai đều góa chồng vào năm 1806 - sống cùng với nhau.[34]

Willem, con trai của Willem V và Wilhelmine đã đi cùng cha mẹ sống lưu vong, nhưng trở về Hà Lan vào năm 1813 để trở thành Thân vương rồi sau đó là Quốc vương Willem I của Hà Lan vào năm 1815, người sáng lập chế độ quân chủ Hà Lan hiện nay.[35][36] Wilhelmine và con gái trở về Hà Lan vào ngày 10 tháng 1 năm 1814.[37][38] Khi trở về, Wilhelmine được người dân tung hô là Vương mẫu hậu[a] và được người dân gọi là Willemijn (tên gọi dành cho nữ ở Hà Lan có ý nghĩa là "người bảo vệ mạnh mẽ")[39] và được nhìn nhìn nhận là Moeder des Vaderlands (Người Mẹ của Đất nước).[40] Wilhelmine và con gái Louise sống ở Paviljoen WelgelegenHaarlem và tại đây, Wilhelime đã đón tiếp Aleksandr I của Nga khi Hoàng đế Nga đang trên đường đến Anh.[37]

Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 9 tháng 6 năm 1820, Wilhelmine qua đời tại Cung điện Het Loo khi được 69 tuổi. Thái vương phi được chôn cất tại Nhà thờ Apeldoorn.[41] Ngày 27 tháng 11 năm 1822, Wilhelmine được cải táng tại Hầm mộ Vương thất của Vương tộc Oranje-NassauDelft.[42]

Con cái[sửa | sửa mã nguồn]

Gia đình của Wilhelmine của Phổ, Thân vương phi xứ Oranje.

Wilhelmine và Willem V xứ Oranje có với nhau năm người con:[43]

Gia phả[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Vương mẫu hậu (tiếng Anh: Queen Mother) vốn là danh xưng dành cho một Vương hậu góa phụ (tiếng Anh:Dowager Queen hay Queen Dowager), người đồng thời cũng là mẹ của Quốc vương đương nhiệm. Wilhelmine trên thực tế chưa bao giờ là Vương hậu (tiếng Anh:Queen consort) mà chỉ là Thân vương phi (tiếng Anh: Princess consort).

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Nimwegen, Olaf van (28 tháng 6 năm 2023). “Inleiding” [Giới thiệu]. Willem V (bằng tiếng Hà Lan). Prometheus. ISBN 978-90-446-4822-5.
  2. ^ McNaughton 1973, tr. 94.
  3. ^ McNaughton 1973, tr. 46.
  4. ^ a b Dongelmans, Maarten-Jan (21 tháng 9 năm 2022). “I Pril verdriet en geluk (1751–1774)”. Oranjeprinses op drift: Wilhelmina van Pruisen en de Nederlanders (bằng tiếng Hà Lan). Amsterdam University Press. ISBN 978-94-6249-930-0.
  5. ^ Westphal & Freyer 2020, tr. 220.
  6. ^ a b Friederike Sophie Wilhelmine von Preußen 1903, tr. 25.
  7. ^ Friederike Sophie Wilhelmine von Preußen 1903, tr. 28.
  8. ^ Edmundson, George (21 tháng 9 năm 2018). History of Holland (bằng tiếng Anh). BoD – Books on Demand. tr. 304. ISBN 978-3-7340-5543-0.
  9. ^ Rowen, Herbert H. (20 tháng 9 năm 1990). The Princes of Orange: The Stadholders in the Dutch Republic (bằng tiếng Anh). Cambridge University Press. tr. 199. ISBN 978-0-521-39653-0.
  10. ^ Onnekink, David; Rommelse, Gijs (6 tháng 6 năm 2019). The Dutch in the Early Modern World: A History of a Global Power (bằng tiếng Anh). Cambridge University Press. tr. 237. ISBN 978-1-107-12581-0.
  11. ^ a b Westphal & Freyer 2020, tr. 223.
  12. ^ Dongelmans, Maarten-Jan (21 tháng 9 năm 2022). “Kerntaken”. Oranjeprinses op drift: Wilhelmina van Pruisen en de Nederlanders (bằng tiếng Anh). Amsterdam University Press. ISBN 978-94-6249-930-0.
  13. ^ a b Tuchman, Barbara W. (22 tháng 6 năm 2011). The First Salute: A View of the American Revolution (bằng tiếng Anh). Random House Publishing Group. tr. 83–84. ISBN 978-0-307-79857-2.
  14. ^ Rowen, Herbert Harvey (1988). The princes of Orange : the stadholders in the Dutch Republic. Internet Archive. Cambridge [Cambridgeshire] ; New York : Cambridge University Press. tr. 206. ISBN 978-0-521-34525-5.
  15. ^ Naber 1908, tr. 46–47.
  16. ^ Naber 1908, tr. 48.
  17. ^ “Netherlands - Napoleonic, Batavian, Revolution | Britannica”. www.britannica.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2024.
  18. ^ Friederike Sophie Wilhelmine von Preußen 1903, tr. 33.
  19. ^ Naber 1908, tr. 69.
  20. ^ Naber 1908, tr. 70–71.
  21. ^ Naber 1908, tr. 91.
  22. ^ Woelderink, B. (2005). Inventaris van de archieven van stadhouder Willem V (1745-1808) en de Hofcommissie van Willwm IV (1732-1794) (bằng tiếng Hà Lan). Uitgeverij Verloren. tr. 11. ISBN 978-90-6550-890-4.
  23. ^ Naber 1908, tr. 103-105.
  24. ^ Naber 1908, tr. 103–105.
  25. ^ a b c d e f Koch, Jeroen; Meulen, Dik van der; Zanten, Jeroen van (6 tháng 6 năm 2022). The House of Orange in Revolution and War: A European History, 1772–1890 (bằng tiếng Anh). Reaktion Books. tr. 15–16. ISBN 978-1-78914-541-0.
  26. ^ a b c Bunge, Wiep van (22 tháng 10 năm 2018). From Bayle to the Batavian Revolution: Essays on Philosophy in the Eighteenth-Century Dutch Republic (bằng tiếng Anh). BRILL. tr. 205–206. ISBN 978-90-04-38359-3.
  27. ^ Schama, Simon (1977). Patriots and liberators : revolution in the Netherlands, 1780-1813. Internet Archive. New York : Knopf. tr. 127. ISBN 978-0-394-48516-4.
  28. ^ a b Evers, Meindert (2006). Begegnungen mit der deutschen Kultur: niederländisch-deutsche Beziehungen zwischen 1780 und 1920 (bằng tiếng Đức). Königshausen & Neumann. tr. 33. ISBN 978-3-8260-3260-8.
  29. ^ Onnekink, David; Rommelse, Gijs (2019). “The Dissolving Republic (1747–1795)”. The Dutch in the Early Modern World: A History of a Global Power. Cambridge: Cambridge University Press. tr. 246. ISBN 978-1-107-12581-0.
  30. ^ “Netherlands - Enlightenment, Trade, Reforms | Britannica”. www.britannica.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2024.
  31. ^ Rowen, Herbert Harvey (1988). The princes of Orange : the stadholders in the Dutch Republic. Internet Archive. Cambridge [Cambridgeshire] ; New York : Cambridge University Press. tr. 228–229. ISBN 978-0-521-34525-5.
  32. ^ Naber 1908, tr. 187–188.
  33. ^ Naber 1908, tr. 233–235, 238–239.
  34. ^ Naber 1908, tr. 247–249.
  35. ^ Naber 1908, tr. 294.
  36. ^ “Netherlands - Napoleonic, Batavian, Revolution | Britannica”. www.britannica.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2024.
  37. ^ a b Naber 1908, tr. 290–291.
  38. ^ “AUTOBIOGRAPHICAL MEMORY IN THE MAKING: WILHELMINA OF PRUSSIA'S CHILDHOOD MEMOIRS”. Controlling Time and Shaping the Self: Developments in Autobiographical Writing since the Sixteenth Century (bằng tiếng Anh). BRILL. 22 tháng 6 năm 2011. tr. 51. ISBN 978-90-04-20758-5.
  39. ^ Westphal & Freyer 2020, tr. 246.
  40. ^ Dongelmans, Maarten-Jan (21 tháng 9 năm 2022). Oranjeprinses op drift: Wilhelmina van Pruisen en de Nederlanders (bằng tiếng Anh). Amsterdam University Press. ISBN 978-94-6249-930-0.
  41. ^ Naber 1908, tr. 304.
  42. ^ Zaken, Ministerie van Algemene (12 tháng 12 năm 2022). “Koninklijke grafkelder - Overlijden - Het Koninklijk Huis”. www.koninklijkhuis.nl (bằng tiếng Hà Lan). Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2024.
  43. ^ McNaughton 1973, tr. 95.
  44. ^ Genealogie ascendante jusqu'au quatrieme degre inclusivement de tous les Rois et Princes de maisons souveraines de l'Europe actuellement vivans [Genealogy up to the fourth degree inclusively of all the Kings and Princes of sovereign houses of Europe currently living] (bằng tiếng Pháp). Bourdeaux: Frederic Guillaume Birnstiel. 1768. tr. 17.

Nguồn tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]

McNaughton, Arnold (1973). The book of kings : a royal genealogy [Sách các vua : Gia phả vương thất] (bằng tiếng Anh). Internet Archive. [New York] : Quadrangle/New York Times Book Co. ISBN 978-0-8129-0280-8.

Naber, Johanna Wilhelmina Antoinette (1908). Prinses Wilhelmina, gemalin van Willem v, prins van Oranje [Vương tôn nữ Wilhelmine, phối ngẫu của Wellem V, Thân vương xứ Oranje] (bằng tiếng Hà Lan). Meulenhoff.

Westphal, Siegrid; Freyer, Stefanie (24 tháng 8 năm 2020). “"Der einzige Mann am oranischen Hof". Wilhelmina von Preußen (1751–1820. Erbstatthalterin und Diplomatin” ["Người đàn ông duy nhất của triều đình Oranje". Wilhelmina của Phổ (1751–1820). Thống đốc phu nhân và Nhà ngoại giao]. Wissen und Strategien frühneuzeitlicher Diplomatie (bằng tiếng Đức). Walter de Gruyter GmbH & Co KG. ISBN 978-3-11-062543-1.

Friederike Sophie Wilhelmine von Preußen, margrave de Bayreuth (1903). Die Erinnerungen der Prinzessin Wilhelmine von Oranien an den hof Friedrichs des Grossen (1751-1767) (bằng tiếng Pháp). A. Duncker.

Wilhelmine của Phổ
Sinh: 7 tháng 8, năm 1751 Mất: 9 tháng 6, năm 1820
Vương thất Hà Lan
Tiền nhiệm
Anne của Đại Anh
Thân vương phi xứ Oranje
1767 – 1806
Kế nhiệm
Wilhelmine của Phổ