Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phan Đình Thứ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tập tin PhanDinhThuLamSon1.jpg đã bị bỏ ra khỏi bài viết vì nó đã bị xóa ở Commons bởi Jameslwoodward vì lý do: Commons:Deletion requests/Files uploaded by Hoàng Đình Thảo - U
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 6: Dòng 6:
| nơi sinh= Thừa Thiên, Việt Nam
| nơi sinh= Thừa Thiên, Việt Nam
| nơi mất= [[Thành phố Hồ Chí Minh]]
| nơi mất= [[Thành phố Hồ Chí Minh]]
| hình= [[Tập|170px]]
| hình=
| thuộc= [[Tập tin:GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hoà]]
| thuộc= [[Tập tin:GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hoà]]
| năm phục vụ= 1937-1973
| năm phục vụ= 1937-1973
Dòng 75: Dòng 75:
Năm 1962, khi làm Chỉ huy Trưởng [[Trường Bộ binh Thủ Đức]], trong một buổi duyệt binh thường lệ, viên Đại tá cố vấn Mỹ đi cùng với Đại tá Lam Sơn bất ngờ dừng lại, đưa ngón tay chọc vào đầu nòng súng khẩu Garant M1 của một học viên sĩ quan để kiểm tra vũ khí. Ngón tay của ông ta dính đầy dầu chùi súng, cho rằng, người học viên sĩ quan này không lau chùi vũ khí theo đúng quy định, ông ta đưa ngón tay út dính dầu quệt vào mặt anh ta. Đang đứng bên cạnh, Lam Sơn cho viên cố vấn Mỹ một cái tát với lời cảnh cáo: "Đừng bao giờ hành động như thế với bất cứ người lính nào. Nếu họ có lỗi, ông có thể phạt họ theo quân kỷ. Rõ chưa?"
Năm 1962, khi làm Chỉ huy Trưởng [[Trường Bộ binh Thủ Đức]], trong một buổi duyệt binh thường lệ, viên Đại tá cố vấn Mỹ đi cùng với Đại tá Lam Sơn bất ngờ dừng lại, đưa ngón tay chọc vào đầu nòng súng khẩu Garant M1 của một học viên sĩ quan để kiểm tra vũ khí. Ngón tay của ông ta dính đầy dầu chùi súng, cho rằng, người học viên sĩ quan này không lau chùi vũ khí theo đúng quy định, ông ta đưa ngón tay út dính dầu quệt vào mặt anh ta. Đang đứng bên cạnh, Lam Sơn cho viên cố vấn Mỹ một cái tát với lời cảnh cáo: "Đừng bao giờ hành động như thế với bất cứ người lính nào. Nếu họ có lỗi, ông có thể phạt họ theo quân kỷ. Rõ chưa?"
==Tham khảo==
==Tham khảo==
* Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011), ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa''.
* Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011), ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.


==Chú thích==
==Chú thích==
Dòng 85: Dòng 85:
==Liên kết ngoài==
==Liên kết ngoài==
*[http://phunutoday.vn/blognguoinoitieng/201109/Tuong-Lam-Son-Tay-choi-bi-kich-trong-quan-doi-Sai-Gon-truoc-nam-1975-2098219/ Tướng Lam Sơn: Tay chơi bi kịch trong quân đội Sài Gòn trước năm 1975]
*[http://phunutoday.vn/blognguoinoitieng/201109/Tuong-Lam-Son-Tay-choi-bi-kich-trong-quan-doi-Sai-Gon-truoc-nam-1975-2098219/ Tướng Lam Sơn: Tay chơi bi kịch trong quân đội Sài Gòn trước năm 1975]

{{thời gian sống|1919|2002}}


[[Thể loại:Chuẩn tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Chuẩn tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Cựu binh Quân đội Thuộc địa Pháp]]
[[Thể loại:Cựu binh Quân đội Thuộc địa Pháp]]
[[Thể loại:Người Thừa Thiên]]
[[Thể loại:Người Thừa Thiên]]
[[Thể loại:Sinh 1919]]
[[Thể loại:Mất 2002]]

Phiên bản lúc 23:37, ngày 29 tháng 11 năm 2015

Phan Đình Thứ
Biệt danhLam Sơn
Sinh(1919-04-22)22 tháng 4, 1919
Thừa Thiên, Việt Nam
Mất23 tháng 7, 2012(2012-07-23) (93 tuổi)
Thành phố Hồ Chí Minh
Thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hoà
Năm tại ngũ1937-1973
Quân hàm Chuẩn tướng
Đơn vịSư đoàn 23 và 21 Bộ binh
Bộ chỉ huy Biệt động quân
Trường Bộ binh Thủ Đức
Lực lượng Đặc biệt
Biệt khu Thủ đô
Quân đoàn III
Chỉ huyQuân đội Pháp
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Công việc khácTuỳ viên Quân sự

Phan Đình Thứ tự Lam Sơn* (1919-2002), nguyên là một tướng lĩnh bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông xuất thân từ trường Võ bị Lục quân của Pháp và phục vụ trong Quân đội Viễn chinh Pháp cho đến năm 1950 mới hồi hương. Ông nguyên là Chỉ huy trưởng Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, nguyên Tư Lệnh Lực lượng đặc biệt, nguyên Tư lệnh binh chủng Biệt Động Quân (Là Tư lệnh thứ 3 của binh chủng này sau Thiếu tá Lữ Đình Sơn và Thiếu tá Phan Trọng Chinh).

Tiểu sử & binh nghiệp

Ông sinh ngày 22-4-1919 trong một gia đình quan lại tại Thừa Thiên, Trung phần Việt Nam và lớn lên tại Huế. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông phải vừa đi làm, vừa tự học. Ông tốt nghiệp Trung học đệ nhất cấp chương trình Pháp tại Huế với văn bằng Thành chung.

Quân đội Pháp

Năm 1937, ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Viễn chinh Pháp thuộc binh chủng Pháo binh tại Sài Gòn, mang số quân: 39/200.308. Năm 1940, ông được chuyển qua ngành thông ngôn, phục vụ tại Hạt Charentes, Pháp.

Đầu năm 1943, ông được đơn vị cử theo học trường Võ bị Lục quân Pháp tại Bắc Phi. Tháng 6 cùng năm, tốt nghiệp với cấp hàm Chuẩn úy. Sau đó, ông được cử đi học bổ túc ở trường Chiến tranh Viễn đông của Anh tại Ấn Độ, mãn khoá ông được thăng cấp Thiếu úy và phục vụ cho Quân đội Viễn chinh Pháp tại các chiến trường Tunisia, Algérie. Qua năm 1944, ông theo đơn vị trở về Đông Dương đóng quân ở Lào.

Năm 1945, ông được thăng cấp Trung úy và được giao nhiệm vụ chỉ huy một toán biệt kích đa quốc gia, nhảy xuống Cánh đồng Chum, Lào để giải giới quân Nhật.

Quân đội Quốc gia

Năm 1950, ông được thăng cấp Đại úy trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Cùng năm này, Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập (tiền thân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa sau này), ông hồi hương và được chuyển sang Quân đội Quốc gia phục vụ tại Quảng Trị. Qua năm 1954, ông được lên cấp Thiếu tá và được cử đi học khóa Trung đoàn Trưởng tại Trung tâm nghiên cứu Quân sự, Hà Nội (tiền thân của trường Chỉ huy & Tham mưu). Học cùng khóa với ông còn có Thiếu tá Nguyễn Văn Thiệu và Đại úy Nguyễn Chánh Thi.

Quân đội Việt nam Cộng hòa

Năm 1955, Quân đội quốc gia được cải danh thành Quân đội Việt Nam Cộng hoà, ông được thăng cấp Trung tá và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 16 khinh chiến (tiền thân của Sư đoàn 23 bộ binh) đóng tại Đông Hà, Quảng Trị. Cuối năm 1957, ông được lệnh bàn giao Sư đoàn 16 lại cho Đại tá Nguyễn Hữu Có. Qua đầu năm 1958, ông được thăng cấp Đại tá thay thế Đại tá Lâm Văn Phát làm Tư lệnh Sư đoàn 13 khinh chiến (tiền thân của Sư đoàn 21 bộ binh), đồn trú tại Bến Kéo, Tây Ninh. Cuối năm này, ông được cử đi du học khoá Chỉ huy & Tham mưu tại Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Tháng 3 năm 1959, mãn khoá về nước, ông được cử đi làm sĩ quan Tuỳ viên Quân sự tại Manila, Philippines.

Trung tuần tháng 11 năm 1960, ông được cử thay thế Thiếu tá Phan Trọng Chinh làm Chỉ huy trưởng binh chủng Biệt động quân. Qua giữa tháng 5 năm 1962, ông nhận lệnh bàn giao Bộ chỉ huy Biệt động quân lại cho Đại tá Tôn Thất Xứng. Cùng thời điểm đi nhận chức Chỉ huy trưởng Liên trường Võ khoa Thủ Đức thay thế Thiếu tướng Hồ Văn Tố vừa từ trần. Ông đã sáng kiến ghi thêm 4 chữ "Cư An Tư Nguy" trên phù hiệu của Trường (có nghĩa là: Muốn sống yên ổn thì phải nghĩ đến lúc hiểm nguy. Suy rộng ra: Muốn hoà bình phải chuẩn bị chiến tranh). Trong thời gian đương nhiệm, đã tổ chức lễ mãn khoá cho 3 khoá sĩ quan trừ bị là khoá 12 Trần Hưng Đạo, khoá 13 Ấp Chiến Lược và khoá 14 Nhân Trí Dũng.

(Đầu tháng 8 năm 1963, Liên trường Võ khoa Thủ Đức được cải danh thành trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, trở lại danh hiệu cũ lúc mới thành lập).

Đầu tháng 11 năm 1963, ông được lệnh bàn giao chức Chỉ huy trưởng trường Thủ Đức lại cho Thiếu tướng Trần Ngọc Tám.

Trung tuần tháng 2 năm 1964, ông được cử làm Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt thay thế Trung tướng Lê Văn Nghiêm đi làm Chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự. Tháng 8 cùng năm, bàn giao chức Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Đại tá Đoàn Văn Quảng (nguyên Chỉ huy trưởng Biệt động quân Vùng 3 Chiến thuật). Sau đó ông được chuyển đến phục vụ trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị với chức vụ Tổng cục phó đặc trách về Thể dục & Thể thao. Tháng 9 năm 1969, ông được tái nhiệm chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt thay thế Thiếu tướng Đoàn Văn Quảng đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng. Thời điểm này, ông đã sáng kiến xây dựng "Nghĩa Dũng đài" trước trại Chương Dương, Bộ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt ở Nha Trang để tưởng niệm các anh hùng tử sĩ của binh chủng đã hy sinh vì Tổ Quốc.

Đầu năm 1970, bàn giao chức Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Cùng thời điểm đi nhận chức phụ tá Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Giữa năm nhận chức Tư lệnh phó lãnh thổ Quân đoàn III kiêm Chỉ huy trưởng Địa phương quân & Nghĩa quân Quân khu 3. Qua năm 1971, ông được vinh thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm.

Năm 1972, ông dược chỉ định chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng (lại một lần nữa thay thế Thiếu tướng Đoàn Văn Quảng). Tướng Quảng được điều về làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung.

Vào một buổi tối tháng 9 năm 1972, tại Tổng hành dinh Quân đoàn II ở Pleiku, một viên Trung sĩ người Thượng tinh thần bất ổn do uống rượu say đứng ở cổng, tay cầm lựu đạn đã rút chốt chờ tướng Lam Sơn về để ám sát. Quân cảnh đến can thiệp đương sự không chịu. Khi tướng Lam Sơn về khuyến cáo cũng không nghe. Tướng Lam Sơn đã dùng súng nấp ở sau bờ tường bắn, đương sự ngã quỵ khiến lựu đạn nổ bị trọng thương và sau đó tử vong.

Sau sự việc trên, ông bị đưa về giam tại Chí Hoà để điều tra và ngày 29 tháng 11 ra Tòa án Mặt trận Quân sự và bị xử án 5 năm tù treo về tội cố ý đả thương và dẫn đến tử vong của viên Trung sĩ nói trên. Qua năm 1973, ông bị buộc phải giải ngũ.

Trong cuộc đời binh nghiệp ông được thưởng nhiều huy, huân chượng của Việt Nam Cộng hòa, Pháp, Mỹ và đặc biệt là Lào.[1]

1975

Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông bị đưa đi tù cũng như các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa khác và bị đưa ra miền Bắc Việt Nam tập trung ở trại giam Nam Hà, Hà Nam Ninh. Khi đi cải tạo, vì bị mất liên lạc với gia đình, ông không được thăm nuôi, nên được gọi là tướng mồ côi (Cùng cảnh ngộ này là tướng Dương Văn Đức và tướng Hồ Trung Hậu). Mười ba năm sau (1988) ông được trả tự do và được lên danh sách đi Mỹ theo chương trình H.O, nhưng ông từ chối vì một phần muốn ở lại quê hương, một phần không muốn xa 3 người con đã có gia đình không được đi theo chương trình HO. Sau đó, với sự bảo trợ của Bộ Tư lệnh Nhảy dù Pháp, chính phủ Pháp đã đồng ý cho cả gia đình của ông qua Pháp vào năm 1989.

Năm 1995, ông một mình trở về sống những chuỗi ngày còn lại ở quê hương Việt Nam và mất tại Tp HCM (Sài Gòn) vào ngày 23 tháng 07 năm 2002.

Gia đình

Từ thời gian ông phục vụ ở Quân đội Viễn chinh Pháp đóng quân ở Lào (lập gia đình với người vợ đầu tiên tại Lào và có người con trai đầu lòng đặt tên là Phan Đình Lam Sơn) cho đến sau này, ông có tất cả 6 người vợ và có 10 người con gồm: 7 trai, 3 gái.

Giai thoại

  • Đánh sỹ quan huấn luyện Mỹ:

Trong một buổi huấn luyện khóa Tham Mưu Cao Cấp tại Fort Leavanworth, Hoa Kỳ, một Sĩ Quan Hoa Kỳ đã nhìn vào bảng tên của Đại tá Lam Sơn và tưởng là ông đã bỏ tên Việt Nam đi mà dùng tên Mỹ LAWSON, nên đã cười nhạo: "Mày là người Việt Nam, sao đổi tên là Lawson?" Đại tá Lam Sơn nổi cơn thịnh nộ, đấm cho tên Mỹ một quả đấm, kèm theo lời giải thích: "Tôi tuy là dân da vàng, nhưng tôi có tư cách của tôi, của một Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tôi dùng tên của tôi chứ không bao giờ dùng tên của bất cứ quốc gia nào khác, dù là Mỹ."[2]

  • Đánh cố vấn Mỹ:

Năm 1962, khi làm Chỉ huy Trưởng Trường Bộ binh Thủ Đức, trong một buổi duyệt binh thường lệ, viên Đại tá cố vấn Mỹ đi cùng với Đại tá Lam Sơn bất ngờ dừng lại, đưa ngón tay chọc vào đầu nòng súng khẩu Garant M1 của một học viên sĩ quan để kiểm tra vũ khí. Ngón tay của ông ta dính đầy dầu chùi súng, cho rằng, người học viên sĩ quan này không lau chùi vũ khí theo đúng quy định, ông ta đưa ngón tay út dính dầu quệt vào mặt anh ta. Đang đứng bên cạnh, Lam Sơn cho viên cố vấn Mỹ một cái tát với lời cảnh cáo: "Đừng bao giờ hành động như thế với bất cứ người lính nào. Nếu họ có lỗi, ông có thể phạt họ theo quân kỷ. Rõ chưa?"

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011), Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Chú thích

Có bài viết: Tướng Phan Đình Thứ sinh năm 1916 tại Hà Tĩnh. Thăng cấp Đại tá năm 1956 và cấp Chuẩn tướng năm 1972. Bổ sung theo sách ghi trên vì soạn giả là những sĩ quan cao cấp từng phục vụ ở Trung tâm hồ sơ cá nhân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

* Tên gọi Lam Sơn là ông lấy tên người con trai trưởng của ông.

  1. ^ Huy Chương Việt Nam Cộng hòa: Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương – Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương - Lục Quân Huân Chưong –Biệt Công Bội Tinh – Chiến Thương Bội Tinh – Anh Dũng Bội Tinh Với Nhành Dương Liễu – Anh Dũng Bội Tinh Với Ngôi Sao Vàng – 10 lần Tuyên Dương Công Trạng Trước Quân Đội. Huy Chương Pháp: Legion D’Honneur (Bắc Đẩu Bội Tinh, Pháp) – Croix De Gùerre 1942-1946 – Chiến Dịch Bội Tinh cho những Sĩ Quan tham dự trận Đại Chiến Thứ Hai – Medaille De La Résistance 1943 Huy Chương Bảo Vệ Nước Pháp, do Tổng Thông Charles De Gaulle trao tặng những Sĩ Quan đã bảo vệ Nước Pháp trong trận Đệ Nhị Thề Chiến 1943. Huy Chương Mỹ: Silver Star, do Đại Tướng Westmoreland gắn tại Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt Nha Trang. Huy Chương Lào: Huy Chương Bạch Tượng, do Quốc Vương Lào gắn.
  2. ^ Câu nói của tướng Lam Sơn thì còn "phiên bản" khác: "Thằng nhãi, tao đã từng chiến đấu khắp chiến trường Á, Phi, chứ không ru rú trong một xó xỉnh như mày. Tên Việt Nam của tao như thế nào thì tao viết như vậy, chứ không cần đặt tên Tây, tên Mỹ gì hết."

Liên kết ngoài