Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Khắc Bình”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n sửa chính tả 2, replaced: . → ., Quân Khu → Quân khu using AWB
n clean up, replaced: → (5) using AWB
Dòng 11: Dòng 11:
| đơn vị= Sư đoàn 21 Bộ binh<br/>Sư đoàn 23 Bộ binh<br/>Bộ Tổng tham mưu<br/>Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia
| đơn vị= Sư đoàn 21 Bộ binh<br/>Sư đoàn 23 Bộ binh<br/>Bộ Tổng tham mưu<br/>Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia
| chỉ huy= Quân đội Quốc gia Việt Nam<br/>Quân lực Việt Nam Cộng hòa
| chỉ huy= Quân đội Quốc gia Việt Nam<br/>Quân lực Việt Nam Cộng hòa
| công việc khác= Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng<br/>Tùy viên Quân sự
| công việc khác= Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng<br/>Tùy viên Quân sự
}}
}}


Dòng 19: Dòng 19:
Ông sinh ngày 18-1-1931 tại [[Ba Tri]], [[Bến Tre]], miền tây Nam phần trong một gia đình điền chủ khá giả
Ông sinh ngày 18-1-1931 tại [[Ba Tri]], [[Bến Tre]], miền tây Nam phần trong một gia đình điền chủ khá giả


Tháng 9 năm 1951, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào '''Quân đội Quốc gia''', mang số quân: 51/121.145. Theo học khóa 1 Lê Văn Duyệt tại trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức ''(khai giảng ngày 1/10/1951, mãn khóa ngày 1/6/1952)''. Tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]]. Ra trường được điều động đi phục vụ đơn vị bộ binh trong Quân đội Liên hiệp Pháp với chức vụ Trung đội trưởng thuộc Đại đội 3, Tiểu đoàn 1 Việt Nam.
Tháng 9 năm 1951, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào '''Quân đội Quốc gia''', mang số quân: 51/121.145. Theo học khóa 1 Lê Văn Duyệt tại trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức ''(khai giảng ngày 1/10/1951, mãn khóa ngày 1/6/1952)''. Tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]]. Ra trường được điều động đi phục vụ đơn vị bộ binh trong Quân đội Liên hiệp Pháp với chức vụ Trung đội trưởng thuộc Đại đội 3, Tiểu đoàn 1 Việt Nam.


Tháng 4 năm 1953, ông được chuyển sang phục vụ tại Phòng 6 Bộ Tham mưu Quân khu I. Tháng 10 cùng năm, ông được thăng cấp [[Trung úy]] và được cử theo học trường Tình báo. Qua tháng 3 năm 1954, ông được thăng cấp [[Đại úy]] tại nhiệm. Đến tháng 6 cùng năm, ông được giao giữ chức Chánh Sở liên lạc thuộc Nha Tổng nghiên huấn Bộ Quốc phòng ''(tiền thân của Sở 32 Lực lượng Tình báo).
Tháng 4 năm 1953, ông được chuyển sang phục vụ tại Phòng 6 Bộ Tham mưu Quân khu I. Tháng 10 cùng năm, ông được thăng cấp [[Trung úy]] và được cử theo học trường Tình báo. Qua tháng 3 năm 1954, ông được thăng cấp [[Đại úy]] tại nhiệm. Đến tháng 6 cùng năm, ông được giao giữ chức Chánh Sở liên lạc thuộc Nha Tổng nghiên huấn Bộ Quốc phòng ''(tiền thân của Sở 32 Lực lượng Tình báo).


==Quân đội Việt Nam Cộng hòa==
==Quân đội Việt Nam Cộng hòa==
Tháng 5 năm 1955, sau khi sát nhập vào Quân đội Việt Nam Cộng hòa ''(cải danh từ Quân đội Quốc gia)'', ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] và được cử theo học khoá 1 Chỉ huy và Tham mưu tại trường Đại học Quân sự. Mãn khóa học, ông đậu Thủ khoa. Đến năm 1957, ông được cử giữ chức Trưởng phòng 3 trong Bộ tư lệnh Quân đoàn II.
Tháng 5 năm 1955, sau khi sát nhập vào Quân đội Việt Nam Cộng hòa ''(cải danh từ Quân đội Quốc gia)'', ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] và được cử theo học khoá 1 Chỉ huy và Tham mưu tại trường Đại học Quân sự. Mãn khóa học, ông đậu Thủ khoa. Đến năm 1957, ông được cử giữ chức Trưởng phòng 3 trong Bộ tư lệnh Quân đoàn II.


Năm 1958, ông được cử đi du hành quan sát tổ chức các đại đơn vị của Quân đội [[Đại Hàn]] sau chiến tranh Nam, Bắc [[Triều Tiên]]. Tháng 6 cùng năm về nước, ông được làm Trưởng phòng Tình hình trong Văn phòng Thường trực Quốc phòng tại Phủ [[Tổng thống]]. Qua tháng 5 năm 1959, ông được cử đi du hành quan sát và nghiên cứu chiến trường [[Ai Lao]] và [[Hạ Lào]]. Tháng 11 cùng năm, ông được giữ chức Tham mưu phó Hành quân trong Bộ tư lệnh Quân khu V. Đến đầu năm 1960, ông chuyển công tác đi làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 21 bộ binh. Giữa năm 1961, chuyển sang làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 23 bộ binh.
Năm 1958, ông được cử đi du hành quan sát tổ chức các đại đơn vị của Quân đội [[Đại Hàn]] sau chiến tranh Nam, Bắc [[Triều Tiên]]. Tháng 6 cùng năm về nước, ông được làm Trưởng phòng Tình hình trong Văn phòng Thường trực Quốc phòng tại Phủ [[Tổng thống]]. Qua tháng 5 năm 1959, ông được cử đi du hành quan sát và nghiên cứu chiến trường [[Ai Lao]] và [[Hạ Lào]]. Tháng 11 cùng năm, ông được giữ chức Tham mưu phó Hành quân trong Bộ tư lệnh Quân khu V. Đến đầu năm 1960, ông chuyển công tác đi làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 21 bộ binh. Giữa năm 1961, chuyển sang làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 23 bộ binh.

Phiên bản lúc 07:56, ngày 22 tháng 1 năm 2016

Sinh18-1-1931
Bến Tre, VN
Thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1951-1975
Quân hàm Thiếu tướng
Đơn vịSư đoàn 21 Bộ binh
Sư đoàn 23 Bộ binh
Bộ Tổng tham mưu
Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia
Chỉ huyQuân đội Quốc gia Việt Nam
Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Công việc khácTỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng
Tùy viên Quân sự

Nguyễn Khắc Bình (1931), nguyên là tướng lĩnh trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang quân hàm Thiếu tướng. Ông xuất thân từ khoá đầu tiên ở trường Sĩ quan Trừ bị được mở ra trong miền Nam Việt Nam dưới thời Quốc gia Việt Nam (cùng thời điểm, trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định được mở ra ở miền Bắc). Ra trường, ông được chọn về bộ binh. Tuy nhiên, sau này ông được nhận những chức vụ có chuyên môn quân sự ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Sau cùng ông được giao cho phụ trách lĩnh vực tình báo Trung ương và ở chức vụ này đến tháng 4/1975.

Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh ngày 18-1-1931 tại Ba Tri, Bến Tre, miền tây Nam phần trong một gia đình điền chủ khá giả

Tháng 9 năm 1951, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 51/121.145. Theo học khóa 1 Lê Văn Duyệt tại trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức (khai giảng ngày 1/10/1951, mãn khóa ngày 1/6/1952). Tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường được điều động đi phục vụ đơn vị bộ binh trong Quân đội Liên hiệp Pháp với chức vụ Trung đội trưởng thuộc Đại đội 3, Tiểu đoàn 1 Việt Nam.

Tháng 4 năm 1953, ông được chuyển sang phục vụ tại Phòng 6 Bộ Tham mưu Quân khu I. Tháng 10 cùng năm, ông được thăng cấp Trung úy và được cử theo học trường Tình báo. Qua tháng 3 năm 1954, ông được thăng cấp Đại úy tại nhiệm. Đến tháng 6 cùng năm, ông được giao giữ chức Chánh Sở liên lạc thuộc Nha Tổng nghiên huấn Bộ Quốc phòng (tiền thân của Sở 32 Lực lượng Tình báo).

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Tháng 5 năm 1955, sau khi sát nhập vào Quân đội Việt Nam Cộng hòa (cải danh từ Quân đội Quốc gia), ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử theo học khoá 1 Chỉ huy và Tham mưu tại trường Đại học Quân sự. Mãn khóa học, ông đậu Thủ khoa. Đến năm 1957, ông được cử giữ chức Trưởng phòng 3 trong Bộ tư lệnh Quân đoàn II.

Năm 1958, ông được cử đi du hành quan sát tổ chức các đại đơn vị của Quân đội Đại Hàn sau chiến tranh Nam, Bắc Triều Tiên. Tháng 6 cùng năm về nước, ông được làm Trưởng phòng Tình hình trong Văn phòng Thường trực Quốc phòng tại Phủ Tổng thống. Qua tháng 5 năm 1959, ông được cử đi du hành quan sát và nghiên cứu chiến trường Ai LaoHạ Lào. Tháng 11 cùng năm, ông được giữ chức Tham mưu phó Hành quân trong Bộ tư lệnh Quân khu V. Đến đầu năm 1960, ông chuyển công tác đi làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 21 bộ binh. Giữa năm 1961, chuyển sang làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 23 bộ binh.

Tháng 5 năm 1963, ông được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Định Tường. Qua tháng 2 năm 1964 sau cuộc chỉnh lý nội bộ của tướng Nguyễn Khánh tại chính quyền Trung ương, ông được thăng cấp Trung tá và được cử giữ chức phụ tá Đặc biệt Văn phòng Tổng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu. Tháng 9 cùng năm, chuyển sang làm phụ tá Quân sự Văn phòng Đổng lý Bộ Quốc phòng. Tháng 5 năm 1965, ông được cử đi làm Tuỳ viên Quân sự Tòa Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Cộng hòa Liên bang Đức.

Tháng 10 năm 1967, ông được triệu hồi về nước để nhận chức Bí thư cho Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Qua tháng 9 năm 1968, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Đặc uỷ trưởng Phủ Đặc uỷ Trung ương Tình báo. Tháng 6 năm 1969, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm và được cử đi du hành quan sát tổ chức Trung ương Tình báo Hoa Kỳ, Đại Hàn và Trung Hoa Quốc gia.

Tháng 9 năm 1971, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia kiêm Đặc uỷ Trưởng Trung ương Tình báo thay thế Thiếu tướng Trần Thanh Phong. Ngày 1 tháng 11 năm 1972, ông được vinh thăng hàm Chuẩn tướng tại nhiệm.

1975

Ngày 1 tháng 2 ông được vinh thăng hàm Thiếu tướng tại nhiệm.

Sau ngày 30 tháng 4, ông và gia đình định cư tại San Jose, California, Hoa Kỳ.

Gia đình

  • Phu nhân: Bà Bùi Tuyết vân. Ông bà có 4 người con, 2 trai 2 gái.

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011), Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.